Nghiên cứu về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em ở Việt Nam

Tóm tắt: Dựa vào kết quả của một số nghiên cứu được thực hiện trong những năm gần đây về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em, bài viết đưa ra một cái nhìn tổng quan về các vấn đề chủ yếu mà các nghiên cứu đã đề cập tới. Với phạm vi nghiên cứu rộng, sử dụng nhiều kỹ thuật thu thập thông tin phù hợp với đối tượng trẻ em; khái niệm trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em ngày càng được định nghĩa một cách rõ ràng và đầy đủ hơn; đối tượng trẻ em được khảo sát ở nhiều lứa tuổi và hoàn cảnh khác nhau. Nhiều vấn đề cơ bản như hình thức và mức độ, hậu quả và nguyên nhân của trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em đã được phân tích. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như thiếu một định nghĩa thống nhất về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em; việc phân loại các hình thức trừng phạt trẻ em chưa rõ ràng, tác động khác nhau của trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em đối với trẻ em gái, trẻ em trai cũng như đối với những nhóm trẻ em ở lứa tuổi khác nhau chưa được xem xét kỹ; hệ thống bảo vệ và hỗ trợ trẻ em là nạn nhân còn ít được bàn luận; hiện tượng trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em trong một số môi trường đặc thù còn chưa được quan tâm.

pdf13 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Gia đình và Giới Số 6 - 2009 Nghiên cứu về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em ở Việt Nam Tóm tắt: Dựa vào kết quả của một số nghiên cứu được thực hiện trong những năm gần đây về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em, bài viết đưa ra một cái nhìn tổng quan về các vấn đề chủ yếu mà các nghiên cứu đã đề cập tới. Với phạm vi nghiên cứu rộng, sử dụng nhiều kỹ thuật thu thập thông tin phù hợp với đối tượng trẻ em; khái niệm trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em ngày càng được định nghĩa một cách rõ ràng và đầy đủ hơn; đối tượng trẻ em được khảo sát ở nhiều lứa tuổi và hoàn cảnh khác nhau. Nhiều vấn đề cơ bản như hình thức và mức độ, hậu quả và nguyên nhân của trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em đã được phân tích. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như thiếu một định nghĩa thống nhất về trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em; việc phân loại các hình thức trừng phạt trẻ em chưa rõ ràng, tác động khác nhau của trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em đối với trẻ em gái, trẻ em trai cũng như đối với những nhóm trẻ em ở lứa tuổi khác nhau chưa được xem xét kỹ; hệ thống bảo vệ và hỗ trợ trẻ em là nạn nhân còn ít được bàn luận; hiện tượng trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em trong một số môi trường đặc thù còn chưa được quan tâm. Từ khóa: Trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em; Bạo lực đối với trẻ em; Trẻ em. Nguyễn Phương Thảo Viện Gia đình và Giới Khái niệm trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em Có nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng trong các nghiên cứu cùng để chỉ hành vi xâm phạm thân thể và tinh thần trẻ em như: bạo lực trẻ em, bạo hành trẻ em, xử phạt thân thể và tinh thần trẻ em, xâm phạm thân thể và tinh thần trẻ em, lạm dụng thân thể và tinh thần trẻ em, ngược đ‘i trẻ em, hành hạ trẻ em và trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em, trừng phạt thể chất và tinh thần trẻ em. Trong những nghiên cứu gần đây nhất, giới nghiên cứu có xu hướng sử dụng thuật ngữ trừng phạt thân thể (thể chất) và tinh thần trẻ em để đặt tên cho hành vi xâm phạm thân thể và tinh thần trẻ em này. Có thể thấy rằng, theo thời gian, không chỉ tên gọi hành vi xâm phạm thân thể và tinh thần trẻ em có sự thay đổi mà nội hàm của những khái niệm này cũng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện đầy đủ hơn. Trong nghiên cứu của Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (SAVY) (2003) và UNICEF (2003), các thuật ngữ mới được xác định một cách rất đơn giản với việc mô tả một số ít các hình thức xử phạt hoặc lạm dụng. Thuật ngữ được SAVY dùng là xử phạt về tâm lý (quát mắng, cấm đoán, bắt buộc) và xử phạt bằng roi vọt và xử phạt nặng bằng roi vọt. UNICEF đưa ra khái niệm lạm dụng về thể chất trẻ được hiểu là các hình thức trừng phạt về thân thể, thường là việc dùng tay, gậy hoặc những dụng cụ đánh trẻ. Lạm dụng về tâm lý tình cảm trẻ bao gồm việc chửi mắng, nhục mạ, và sỉ nhục trẻ em trước người khác. Với nghiên cứu về Bạo hành đối với trẻ em gái trong môi trường học đường, Action Aid đ‘ đưa ra một định nghĩa tác nghiệp về bạo hành đối với trẻ em dựa trên khái niệm bạo hành đối với phụ nữ (Liên hiệp quốc, 1995) là: “bất kỳ lời nói, cử chỉ hoặc hành động nào gây ra hoặc có thể gây ra hậu quả xấu, làm tổn hại, gây đau khổ cho trẻ em gái về thể chất, tâm lý hay tình dục xảy ra ở trường học, tại nơi học thêm hoặc trên đường tới trường”, gồm các hình thức bạo hành về thể chất, bạo hành về vật chất, bạo hành tình dục và bạo hành tâm lý tình cảm. Viện Khoa học Dân số Gia đình và Trẻ em (KHDSGDTE) (2006) dùng thuật ngữ lạm dụng thân thể và tinh thần để khảo sát thực trạng và nhận thức về các hình thức xâm hại trẻ em. Theo đó, 4 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 6, tr. 3-15 - Lạm dụng thân thể trẻ em là hành vi của bố mẹ, người giám hộ hoặc người khác có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ trẻ em, gây tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hại về thân thể cho trẻ em. Hành vi lạm dụng thân thể bao gồm việc đánh đập (có thể dùng dụng cụ hoặc không dùng dụng cụ), hành hạ, gây đau đớn về thể xác (bắt nhịn đói, nhịn khát, bắt phơi nắng...). Lạm dụng thân thể có thể gây thương tích cho trẻ (như bỏng, g‘y/rạn xương, nghẹt thở...), nhưng cũng có khi không để lại thương tích gì. - Lạm dụng tinh thần trẻ em là hành vi của bố, mẹ, người giám hộ hoặc người khác có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, bảo vệ trẻ em, gây tổn thương về tâm lý, tình cảm của trẻ em, biểu hiện ở những hành vi như hạ thấp hoặc không coi trọng giá trị của trẻ (dùng lời lẽ mang tính miệt thị, xúc phạm và hạ nhục trẻ trước mặt mọi người, nhận xét về hình thức, trí tuệ, khả năng của trẻ bằng những lời lẽ gây tổn thương); đe doạ trẻ, khiến cho trẻ thường xuyên sợ h‘i, lo lắng, làm cho trẻ không có cảm giác an toàn; để cho trẻ chứng kiến các hành vi bạo lực trong gia đình, gây nguy cơ làm mất an toàn cá nhân của trẻ; tỏ thái độ lạnh lùng, không biểu lộ tình yêu thương đối với trẻ v.v... Viện KHDSGDTE (2007) đ‘ sử dụng khái niệm trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em theo định nghĩa của tổ chức Cứu trợ trẻ em (2004). Trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em là những hành vi gây ra đau đớn và tổn thương đến thân thể và tinh thần, bao gồm việc sử dụng vũ lực, áp lực, lời nói hoặc các hành vi khác nhằm gây ra đau đớn về thể chất và tinh thần cho trẻ em. Những hành vi này được sử dụng như một biện pháp kỷ luật và bao gồm hai hình thức sau: - Hình thức trừng phạt về thể xác bao gồm việc đánh trẻ bằng tay hoặc đồ vật (như roi, thắt lưng, giây...) đá, lắc, ném, véo, giật tóc, buộc trẻ phải ngồi hay quỳ... trong các tư thế khó chịu hay nhục hình, buộc trẻ phải thực hiện quá mức các bài tập thể dục, đốt, hay đe dọa người khác. - Hình thức trừng phạt về tinh thần bao gồm việc sử dụng lời nói để sỉ nhục, dọa dẫm, chửi bới, sỉa xói, mỉa mai, xa lánh hoặc bỏ mặc trẻ... để hạ nhục, hạ thấp nhân phẩm của trẻ. Cũng theo tổ chức Cứu trợ trẻ em (2004) thì trừng phạt thể xác và tinh Nguyễn Phương Thảo 5 thần trẻ em cũng có nghĩa là trừng phạt thân thể vì từ “thân thể” thực chất là nói đến cơ thể của con người. Vì thế tổ chức này sử dụng hai thuật ngữ này với nội hàm tương đương nhau, với nghĩa là khi nói trừng phạt thân thể chính là nói về trừng phạt thể xác và tinh thần. Có lẽ dựa vào lý giải như trên của tổ chức Cứu trợ trẻ em mà các nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển X‘ hội và của Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới, gia đình, phụ nữ và vị thành niên (CSAGA) đều sử dụng thuật ngữ trừng phạt thân thể trẻ em với hàm ý bao gồm cả trừng phạt về thể xác và trừng phạt về tinh thần. Báo cáo Phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật Việt Nam về bảo vệ trẻ em không bị trừng phạt thể chất và tinh thần (Plan, 2007) đ‘ định nghĩa trừng phạt thể chất và tinh thần trẻ em một cách đầy đủ và toàn diện nhất, bao gồm việc xác định chủ thể và mục đích của hành vi trừng phạt, liệt kê chi tiết các hình thức trừng phạt và hậu quả của những hành vi trừng phạt nay. Tuy nhiên, lưu ý rằng báo cáo sử dụng thuật ngữ trừng phạt thể chất và tinh thần trẻ em. Có thể thấy rằng các khái niệm được sử dụng trong các nghiên cứu trên đây có sự khác biệt ở ba vấn đề cơ bản. - Thứ nhất là việc xác định các hình thức trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em. Có khái niệm định nghĩa một cách hết sức chung chung và có giới hạn những hành vi trừng phạt, ví dụ như trong nghiên cứu của SAVY (xử phạt bằng roi vọt và xử phạt nặng bằng roi vọt) và UNICEF (dùng tay, gậy hoặc các dụng cụ đánh trẻ). Nhưng cũng có nhiều khái niệm xác định một cách rất rõ ràng, cụ thể các hình thức trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em (Viện KHDSGDTE, Action Aid). Ví dụ, các hình thức trừng phạt thân thể có dùng dụng cụ hay không dùng dụng cụ (thước kẻ, gậy, roi v.v...); tác động trực tiếp hay gián tiếp lên cơ thể trẻ em hoặc tác động lên bộ phận nào của cơ thể nạn nhân với những biểu hiện hết sức đa dạng. - Thứ hai là việc xác định đối tượng gây ra hành vi trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em. Đa số các định nghĩa đều chỉ nói đến những đối tượng có trách nhiệm quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em như cha mẹ, thầy cô giáo và những người lớn khác v.v... Nhưng trong định nghĩa của Action Aid (2004) và của Viện Nghiên cứu Phát triển X‘ hội (khảo sát ở Vân Hội, 6 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 6, tr. 3-15 2004) thì đối tượng gây ra hành vi trừng phạt này còn có thể kể đến các học sinh và bạn bè của trẻ em. - Thứ ba là việc xác định hậu quả của hành vi trừng phạt. Có định nghĩa chỉ rõ tác động của hành vi trừng phạt đối với nạn nhân như không gây thương tích, gây thương tích, đánh đòn nặng hay nhẹ nhưng cũng có nhiều định nghĩa không đề cập tới vấn đề này. Hình thức và mức độ trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em Các nghiên cứu cho thấy có rất nhiều cách, biện pháp khác nhau đ‘ được sử dụng để trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em. Hành vi trừng phạt thân thể trẻ em có thể bao gồm: các hình thức không dùng dụng cụ hay dùng dụng cụ, tác động gián tiếp hay trực tiếp lên cơ thể trẻ em, không gây thương tích hay gây thương tích, gây thương tích nhẹ hay gây thương tích nặng cho trẻ em. Hành vi trừng phạt tinh thần trẻ em có thể là: không quan tâm, mắng, quát, chửi, dọa, sỉ nhục v.v... Có thể nhận xét rằng trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em là một hiện tượng phổ biến trong x‘ hội, không chỉ trong môi trường gia đình, cộng đồng mà còn ngay cả trong môi trường giáo dục là nhà trường. Mức độ phổ biến còn thể hiện ở chỗ trẻ em dù nhỏ tuổi (2 tuổi) hay lớn tuổi (18 tuổi), là trai hay gái, ở thành thị hay nông thôn, là người Kinh hay người dân tộc đều có thể là nạn nhân của những hành vi trừng phạt thân thể và tinh thần của người lớn. Ngoài ra, còn có thể kể đến hiện tượng trừng phạt thân thể và tinh thần giữa các học sinh với nhau. Một số kết quả của các cuộc nghiên cứu được nêu sau đây sẽ giúp hình dung về mức độ cũng như các hình thức trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em. Cuộc điều tra của Viện Nghiên cứu Thanh niên cho biết số trẻ em nói rằng cha mẹ thường xuyên sử dụng hình phạt khi mình mắc lỗi chiếm 45,7%; đôi khi sử dụng: 50,1% và không xử phạt: 4,1% (Đặng Cảnh Khanh, 2003). Khảo sát về trừng phạt thân thể trẻ em thực hiện tại x‘ Vân Nội (Vĩnh Phúc) cho thấy có trên 90% số em học sinh cấp I và cấp II khi được hỏi đ‘ từng bị hay thường xuyên bị cha mẹ mắng mỏ và 73,5% số em cho biết Nguyễn Phương Thảo 7 đ‘ từng bị cha mẹ đánh đòn (Viện Nghiên cứu Phát triển X‘ hội, 2005). Với Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ (MICS) (2006), các trẻ em ở độ tuổi rất nhỏ (2 tuổi) cũng là đối tượng để tìm hiểu, số liệu cho biết 93,3% trẻ em ở độ tuổi từ 2 đến 14 đ‘ bị mẹ/người chăm sóc hoặc các thành viên khác trong hộ gia đình xử phạt về tâm lý (quát mắng, cấm đoán, bắt buộc) hoặc xử phạt bằng roi vọt. Có 9,4% trẻ em đ‘ bị xử phạt nặng bằng roi vọt (Tổng cục thống kê, UNICEF, 2006). Nghiên cứu của CSAGA (2004) đ‘ đưa ra những con số rất cụ thể về các hình thức xử phạt trẻ em ở nhà và ở trường: 68,8% bị mắng, 79,2% phạt đứng trước lớp; 33,3% bị ném phấn, thước kẻ; 64,6% bị quật thước kẻ vào tay; 45,8% bị cốc vào đầu. Ngoài ra, còn một loạt các biện pháp khác được thực hiện ở trường nhằm trừng phạt học sinh như: chép phạt, chép nội qui, úp mặt vào tường ở trong lớp, úp mặt vào tường ngoài hành lang, phạt đứng góc lớp, đứng chỗ bác bảo vệ, ngồi bàn cuối một mình, đứng lên ngồi xuống 100 lần, chạy vòng quanh sân trường, bắt chống đẩy, bị ném giẻ lau bảng, tự tát vào mồm, đánh vào tay, đứng nắng, bắt xúc miệng 1 xô nước, dọn nhà vệ sinh, lau nhà, lau cầu thang.... ở nhà các em phải chịu rất nhiều hình thức trừng phạt từ bắt buộc, cấm đoán, không quan tâm (tinh thần) đến xâm phạm thân thể như: giao nhiều bài tập, không cho đi học, đốt sách vở, rút tiền mừng tuổi, không cho tiếp xúc với bạn trai, không cho đi chơi, giận hàng tháng, dọa đuổi ra khỏi nhà, bắt tự bỏ cơm, phạt quỳ, úp mặt vào tường, trói chân tay đánh, nhúng vào bể nước, véo tai, trói vào cột nhà, treo lên cây đánh, ném xuống ao, trói vào gốc cây có tổ kiến, treo lên trần nhà đánh, đánh bằng vòi bơm, dây điện, ôm cột, bắt quỳ gai mít, nhốt vào buồng. Đặc biệt 45,8% trẻ nói việc cha mẹ mang khuyết điểm của các em ra kể trước mọi người gây tổn thương rất nhiều cho trẻ. Báo cáo của Viện KHDSGDTE (2007) đưa ra những con số rất đáng báo động về tình trạng trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em: 94% trẻ em trong mẫu khảo sát cho biết mình bị phạt thân thể và tinh thần tại nhà và 93% bị phạt tại trường. 82% trẻ em nói rằng các em phải chịu những hình phạt thân thể ở khắp mọi chỗ trên cơ thể. Có một vài hình phạt có thể gọi là tra tấn như: treo lên cây và đánh đến khi bất tỉnh, sử dụng điện làm giật, 8 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 6, tr. 3-15 đánh gẫy tay chân, xoắn tai, dí đầu thuốc đang cháy vào người, kéo lê sau xe máy.... Về trừng phạt thân thể gây thương tích, kết quả điều tra SAVY (2003) cho biết có một tỷ lệ thấp 2,2% thanh thiếu niên nói rằng đ‘ từng bị người trong gia đình đánh gây thương tích, tỷ lệ này cao gấp đôi ở nhóm nam thành thị 14-17 tuổi (4,6%). Nghiên cứu của Viện KHDSGDTE đối với các em có hoàn cảnh khó khăn cho kết quả: 61,5% trẻ đ‘ từng bị đánh, tỷ lệ thỉnh thoảng bị đánh là 50,8%, còn tỷ lệ bị đánh thường xuyên rất thấp, chỉ chiếm 7,8%. Nghiên cứu của Action Aid (2004) còn đề cập tới hình thức bạo hành giữa các học sinh với nhau. Đây cũng là hình thức bạo hành ít được nói tới trong các nghiên cứu khác. Bạo hành về thể chất rất đa dạng, có thể chia thành ba loại: loại thứ nhất gồm những hành động không tác động trực tiếp vào thân thể như giật cặp, lục cặp, giật và dấu đồ dùng học tập, giật mũ, áo, giầy dép, khăn đỏ, xịt lốp xe v.v... Loại thứ hai gồm những hành động tác động trực tiếp vào thân thể nhưng không gây thương tích cho trẻ: dính kẹo cao su lên tóc, cắt tóc, đổ nước lên đầu và người, gõ vào đầu, vai, đập vào lưng, vào người, xô đẩy, dùng các đồ dùng học tập, đất, cát, sâu bọ ném vào người. Và loại thứ ba là những hành động gây thương tích cho trẻ như đánh, tát, ném gạch vào người v.v... Bạo hành tâm lý tình cảm từ phía học sinh: một số hình thức trêu nghẹo có tác động xấu về mặt tinh thần thường liên quan đến những lời nói có tính chất bình luận về hình dáng cơ thể, cách ăn nói, đi đứng; hoặc gán ghép với bạn trai. Ngoài ra, còn có hiện tượng doạ dẫm, bắt nạt nhau giữa các học sinh chỉ vì thấy các em ăn mặc lạ hoặc diện, ép tóc, hoặc nhìn mình. Giới tính và độ tuổi Có sự khác biệt nhất định về hành vi trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em đối với các em nam và các em nữ và đối với các em ở các lứa tuổi khác nhau. Các em nam thường bị trừng phạt thân thể nhiều hơn và nặng hơn các em nữ. Ngược lại, các em nữ thường bị trừng phạt về tinh thần (mắng, chửi, sỉ nhục) nhiều hơn các em nam. Hành vi trừng phạt thân thể trẻ em có xu hướng tỉ lệ nghịch với độ tuổi của trẻ em, có nghĩa là tuổi càng lớn trẻ em càng ít bị đánh hơn so với khi tuổi còn nhỏ. Nguyễn Phương Thảo 9 Các trẻ em nữ thường ít chịu hình phạt thô bạo hơn nam (nam 29,1%; nữ 21,2%). Độ tuổi càng lớn thì hình thức mắng lại phổ biến hơn (dưới 11 tuổi là 58,2%; 12-13 tuổi là 66,9% và 14-15 tuổi là 72,2%. Việc sử dụng hình phạt “đôi khi có” lại giảm theo chiều tăng của độ tuổi (dưới 11 là 47,2%; 12-13 tuổi là 45,2%; 14-16 tuổi là 43,6%) (Đặng Cảnh Khanh, 2003). Trẻ em nam bị xử phạt bằng roi vọt cả nhẹ và nặng (94,7% và 11,6%) đều cao hơn so với trẻ em nữ (91,6% và 6,6%) (Mics, 2006). Các em nam dường như bị đánh nhiều hơn (80,4% số em nam trả lời có bị đánh so với 66,7% em nữ); số em ở độ tuổi nhỏ (dưới 11 tuổi) bị đòn cao hơn so với số em ở độ tuổi lớn hơn (tương ứng là 77,4% và 69,4%); tương tự, tỷ lệ em học tiểu học bị đòn cao hơn tỷ lệ bị đòn của các em học trung học cơ sở (tương ứng là 80% và 67,3%) (Viện NCPTXH, 2005). Sự khác biệt về dân tộc và địa lý Xem xét các kết quả nghiên cứu có thể nhận thấy tác động của yếu tố dân tộc và địa lý tới hành vi trừng phạt thân thể và tinh thần đối với trẻ em không thể hiện một xu hướng rõ ràng nào. Mức độ sử dụng hình phạt cũng khác nhau trong các vùng miền: Thành thị 50,8%; nông thôn 38,7% và miền núi là 41,8%. (Đặng Cảnh Khanh 2003). Trẻ em người Kinh bị mắng chửi nhiều hơn trẻ em dân tộc thiểu số. Trẻ em dân tộc thiểu số cho biết các em bị đánh, chửi mắng và sỉ nhục ở trường nhiều hơn so với trẻ em người Kinh. Trẻ em nông thôn bị đánh đập và chửi mắng nhiều hơn trẻ thành thị. Trẻ em thành thị có xu hướng bị đánh ở trường nhiều hơn trẻ nông thôn, mặc dù trẻ nông thôn có vẻ hay bị mắng chửi ở trường hơn trẻ thành thị (Viện KHDSGDTE, 2007). Hậu quả của trừng phạt thân thể và tinh thần đối với trẻ em Ngoài những tổn thương về thể chất có thể nhìn thấy và xác định một cách rõ ràng thì hành vi trừng phạt thân thể và tinh thần đối với trẻ em còn để lại nhiều hậu quả không dễ nhìn thấy và có thể có ảnh hưởng tiêu cực lâu dài tới tâm lý tình cảm cũng như sự phát triển nhân cách của trẻ em với những biểu hiện hết sức đa dạng và ở nhiều mức độ khác nhau. 10 Nghiên cứu Gia đình và Giới. Quyển 19, số 6, tr. 3-15 Từ những tác động về tâm lý, tình cảm khi bị trừng phạt thân thể và tinh thần sẽ dẫn đến những hành động không lường trước được và rất tiêu cực của trẻ em. Sợ h‘i, xấu hổ, mặc cảm, tức giận là những cảm giác mà hầu hết trẻ bị trừng phạt thân thể có. Buồn, mặc cảm sẽ dẫn đến tâm trạng chán nản. Dần dần lòng tự trọng và tự tin sẽ bị suy giảm. Mặt khác, cảm giác oan ức, tức giận, hận dễ đẩy các em tới những hành động bột phát, quyết liệt. Không ít trường hợp, những phản ứng của trẻ mang màu sắc bạo lực như đập phá lung tung, đập đồ đạc, gây gổ với bạn bè, nói hỗn với người lớn, c‘i lại, đánh lại, tự nhốt vào buồng, tự rạch tay (CSAGA, 2004). Các em có thể bị những chấn thương về tâm lý như căng thẳng, sợ h‘i, cảm thấy bị hắt hủi; có thể thay đổi tính tình như trở nên mất tự tin, nhát, hoặc ngược lại, không còn sợ đòn roi, dần dần trở nên khó bảo, cục cằn và sẽ phát triển theo hướng tiêu cực như xa lánh bố mẹ, nói dối, học sút kém, hoặc cực đoan hơn nữa, trẻ em có thể trở thành trẻ hư, bỏ nhà thành trẻ lang thang (Viện NCPTXH, 2005). Trừng phạt thân thể và tinh thần trẻ em có thể ảnh hưởng xấu tới quá trình hình thành nhân cách trẻ em. Bạo lực gia đình đối với trẻ không chỉ là việc gây đau đớn về thể xác mà còn để lại di chứng khá nặng nề và lâu dài về mặt tinh thần, khiến trẻ hoặc thiếu tự tin, rụt rè, lo sợ... hoặc trở nên hung dữ, thường sử dụng bạo lực trong việc xử lý các mối quan hệ trong gia đình và ngoài x‘ hội, cả hiện tại và trong tương lai. Đáng lưu ý là việc cha mẹ đánh đập con cái có khả năng tác động tới việc hình thành thái độ và quan điểm chấp nhận trừng phạt thân thể trong thế hệ trẻ em và xa hơn nữa là khả năng phát triển những hành vi bạo lực ở trẻ em (Viện NCPTXH, 2005). Một trong những hậu quả nghiêm trọng của những hành vi bạo lực của người lớn gây ra cho trẻ em có liên quan tới nạn tự tử. Theo kết quả điều tra của SAVY thì 3,4% số các em trả lời là đ‘ có ý định tự tử. Nghiên cứu của Đặng Phương Kiệt và Đinh Văn Lượng về nạn tự tử tại địa bàn huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định năm 2000 cho thấy mối liên quan giữa những hành vi tự tử với những hành vi bạo lực trong gia đình. Trong số những nạn nhân tự tử liên quan đến bạo lực gia đình thì vị thành niên (12- 20) chiếm 32,22%, lý do của tự tử hầu như do mâu thuẫn cha-con, mâu thuẫn mẹ-con, mâu thuẫn giữa cha mẹ và con (Viện NCPTXH, 2005). Nguyễn Phương Thảo 11 Chính những người thực hiện hành vi trừng phạt thân thể và tinh thần đối với trẻ em cũng ý thức được phần nào hậu quả của những hành động này: trên 70% giáo viên được hỏi thừa nhận trừng phạt thân thể làm học sinh chai sạn với các hình thức phạt, làm giảm lòng tự trọng và tự tin của học sinh, để lại những thương tổn cơ thể, làm tăng nguy cơ bạo lực ở học sinh, làm xấu đi mối quan hệ thầy trò. 64,3% cha mẹ cho rằng làm như thế sẽ khiến trẻ chai sạn với các hình thức t