Ôn tập MacLênin

Câu 1 : Quan diểm Mác - xít về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT và vận dụng để phân tích những sai lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ này thời kỳ trước đổi mới và dể phân tích bài học kinh nghiệm sau đây của Đảng ta:"kết h ợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi m ới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị" (VK8 trang 71). Bài làm Tổng kết chặng đường đổi m ới 10 năm (1986 - 1996), Đại hội VIII rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong đó có bài học: "kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Đây chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất định đó là những QHSX. Phù hợp với kiểu QHSX đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật.Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như: Nhà nước, Đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác.Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và các quan hệ kinh tế đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù CSHT và KTTT, trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.

pdf8 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ôn tập MacLênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Duy vật lịch sử Câu 3 - 1 Ôn tập MacLênin Câu 1 : Quan diểm Mác - xít về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT và vận dụng để phân tích những sai lầm khuyết điểm trong việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ này thời kỳ trước đổi mới và dể phân tích bài học kinh nghiệm sau đây của Đảng ta:"kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị" (VK8 trang 71). Bài làm Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996), Đại hội VIII rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong đó có bài học: "kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Đây chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Mỗi xã hội trong lịch sử có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất định đó là những QHSX. Phù hợp với kiểu QHSX đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật...Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông qua những thiết chế xã hội tương ứng như: Nhà nước, Đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác...Sự liên hệ và tác động lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và các quan hệ kinh tế đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử phản ánh trong các phạm trù CSHT và KTTT, trong nguyên lý về quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. CSHT là toàn bộ những QHSX của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Toàn bộ QHSX hợp thành cơ cấu Kinh tế của một xã hội nhất định bao gồm QHSX thống trị, những QHSX mầm mống, những QHSX tàn dư. Trong những QHSX đó, QHSX thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và tác dụng quyết định với toàn bộ CSHT. CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu QHSX thống trị tiêu biểu cho xã hộ ấy. Duy vật lịch sử Câu 3 - 2 KTTT là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những tư tưởng xã hội: Chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo...cùng với những thiết chế xã hội tương ứng với chúng như nhà nước, các đảng phái, các đoàn thể xã hội... được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của một CSHT nhất định. Trong xã hội có giai cấp, KTTT bao gồm quan điểm tư tưởng và thể chế của giai cấp thôÙng trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm tổ chức của các giai cấp và tầng lớp mới ra đời.Tính chất cơ bản của KTTT trong một chế độ xã hội nhất định do tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định. Đồng thời trong xã hội này Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có quyền lực mạnh nhất tiêu biểu cho chế độ thống trị hiện đang tồn tại. Chính nhờ nhà nước đó, giai cấp thống trị gắn cho xã hội hệ tư tưởng của mình. CSHT với tư cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sản sinh KTTT tương ứng, quy định tính chất của KTTT. Tính chất của CSHT như thế nào thì tính chất của KTTT như thế ấy. QHSX nào giữ vị trí thống trị sẽ tạo ra KTTT tương ứng. Giai cấp nào thống trị xã hội về kinh tế cũng chiếm địa vị thống trị xã hội về chính trị. Tất cả những yếu tố của KTTT đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào CSHT, do CSHT quyết định. Nếu CSHT thay đổi thì KTTT sớm hay muộn cũng sẽ diễn ra. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra từ xã hội nay sang xã hội khác mang tính cách mạng, mà còn diễn ra ngay trong một xã hội, như lịch sử phát triển của xã hôi đã chứng minh. Khi CSHT cũ mất đi thì KTTT do nó sinh ra cũng mất theo. Khi CSHT mới ra đời thì KTTT mới phù hợp với nó cũng xuất hiện. Sự thay đổi của CSHT dẫn đến sự thay đổi của KTTT là quá trình diễn ra hết sức phức tạp. Có những yếu tố của KTTT cũ còn tồn tại day dẵng sau khi CSHT sinh ra nó đã bị diệt vong; có những yếu tố của KTTT cũ được giai cấp thống trị mới duy trì, kế thừa,bổ sung để xây dựng KTTT mới. Sự biến đổi đó xét đến cùng là do sự phát triển của LLSX quy định. Song sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT và tác động đến sự biến đổi của KTTT thông qua CSHT sinh ra nó. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT song cũng chỉ rõ KTTT cũng như các yếu tố của nó có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc của chúng vào CSHT thường không trực tiếp và không giản đơn. KTTT không phải là sản phẩm thụ động của CSHT mà chúng có khả năng tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh Duy vật lịch sử Câu 3 - 3 tế của xã hội và bản thân các yếu tố của KTTT có tác động qua lại lẫn nhau, tác động đến CSHT. Thực tế của đời sống xã hội chỉ ra rằng, không chỉ Nhà nước, pháp luật mới tác động to lớn đến CSHT mà các yếu tố khác của KTTT cũng đều có khả năng gây ra những biến động không nhỏ tới CSHT. Các yếu tố đó tác động đến CSHT bằng nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau. Tác dụng của KTTT sẽ là tích cực, thúc đẩy sự phát triển, nếu nó tác động cùng chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế. Trái lại, nếu tác động ngược chiều với sự vận động của những quy luật kinh tế thì KTTT sẽ là trở lại gây những tác hại cho sự phát triển của sản xuất, cho sự phát triển của xã hội. Đương nhiên trong mỗi chế độ xã hội, sự vận động của các yếu tố của KTTT không phải bao giờ cũng theo cùng một xu hướng. Cũng có khi KTTT nảy sinh tình trạng không đồng bộ giữa các yếu tố, khả năng mâu thuẫn với nhau, chống đối lẫn nhau giữa chúng. Sự tác động tích cực trở lại của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chức năng cơ bản của KTTT là xây dựng, bảo vệ và phát triển CSHT hiện tồn, chống lại những nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại sự tồn tại của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại. Trong việc thực hiện chức năng xã hội đó, Nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng; nó chi phối và trong nhiều trường hợp quyết định khả năng tác động của các yếu tố khác của KTTT đến toàn bộ đời sống xã hội nói chung và đến CSHT nói riêng. Trong KTTT cũng diễn ra sự biến đổi phát triển có tính độc lập tương đối. Quá trình đó diễn ra càng phù hợp với CSHT thì sự tác động của nó đối với CSHT càng có hiệu quả. Tóm lại, KTTT có nhiệm vụ duy nhất, bảo vệ và phát triển kinh tế. Tuy nhiên sự tác động của nó đến kinh tế phụ thuộc vào trình độ năng lực chủ thể và lợi ích của giai cấp cầm quyềøn, thậm chí phụ thuộc vào cả hoàn cảnh tâm lý dân tộc và cả đặc điểm mới của thời đại. Do đó KTTT có thể tác động đúng, có hiệu quả đối với kinh tế hoặc trái với tính tất yếu kinh tế và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nhưng nếu chúng ta quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động đó đến mức phủ định sự tác động quyết định của những quy luật kinh tế, phủ địng tính tất yếu của sự vận động xã hội thì sẽ rơi vào duy tâm chủ quan, không thấy được tiến trình khách quan của lịch sử. Đồng thời Duy vật lịch sử Câu 3 - 4 sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội là nhân tố quyết định nếu xét đến cùng đối với lịch sử trong đó có cả lĩnh vực văn hóa tinh thần nói chung. Không nên tuyệt đối hóa sự thống nhất giữa kinh tế và chính trị, giữa chính trị và tinh thần trong CNXH đặc biệt là thời kỳ quá độ. Chống lại hai khuynh hướng duy ý chí và chủ nghĩa duy kinh tế tầm thường. Trong cách mạng XHCN, thời kỳ trước đổi mới, Đảng ta đã có nhiều cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa CSHT vàKTTT. Nhưng Đảng ta đã có nhiều sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Mặt khác trong KTTT đã buông lõng chuyên chính vô sản, bộ máy nhà nước nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc, cồng kềnh kém hiệu lực, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tóm lại, những sai lầm trên,đã làm cho CSHT XHCN ở nước ta bị biến dạng với một KTTT quan liêu, bảo thủ. Công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, là nhằm xây dựng lại CSHT XHCN với một KTTT tương ứng. Tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm (1986 - 1996). Đại hội VIII đã rút ra 06 bài học chủ yếu. Một trong những bài học chủ yếu đó là: " kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng tâm đồng thời từng bứơc đổi mới chính trị”. Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại, không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới KT, khắc phục tình trạng khủng hoảng KT- XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. KT và chính trị là hai mặt cốt lõi của mối quan hệ giữa CSHT và KTTT. Trong mối quan hệ giữa KT và chính trị thì KT giữ vai trò quyết định vì KT là nội dung vật chất của chính trị còn chính trị là biểu hiện tập trung của nền KT. Cơ sở KT với tính cách là kết cấu hiện thực sản sinh ra hệ thống chính trị tương ứng và quy định hệ thống đó. Nói cách khác, tính chất Duy vật lịch sử Câu 3 - 5 xã hội, giai cấp của chính trị bao giờ cũng phản ánh tính chất xã hội và giai cấp của CSHT. Từ đó dẫn đến sự biến đổi căn bản của KT, sự biến đổi căn bản của chính trị. Tuy nhiên chính trị cũng có sự tác động trở lại đối với KT. Chính trị được biểu hiện tập trung ở nhà nước có sức mạnh vật chất tương ứng. Nhà nước có tác động quyết định năng lực, hiện thư ïc hóa những tất yếu KT. Anghen nói: " bạo lực ( nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng KT" ( Mác - Anghen, Tuyển tập, tập 02, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1971, trang 604). Sau khi giành được chính quyền thì bất cứ giai cấp nào cũng muốn thống trị vững chắc toàn xã hội cho nên giai cấp đó phải đưa ra đường lối mở rộng, phát triển KT trên quy mô toàn xã hội để từng bước thống trị KT đối với toàn xã hội. KT vững mạnh thì Nhà nước được tăng cường, Nhà nước được tăng cường lại tạo thêm phương tiện vật chất để củng cố địa vị KT- XH của giai cấp thống trị. Trong công cuộc đổi mới xã hội hiện nay, chúng ta cần tiến hành đổi mới đồng bộ. Trước hết là đổi mới KT: đổi mới cơ cấu KT, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương thức phân phối, đổi mới mục tiêu của sản xuất, đổi mới quy trình công nghệ... nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, làm cho nền KT nước ta phát triển hòa nhập với trình độ phát triển KT của thế giới và coi đó là điều kiện, là tiền đề quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Để làm được điều đó ngay từ Đại hội lần VI, Dảng ta đã đề ra chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức KT, khai thác mọi khả năng của các thành phần KT, trong đó KT quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất. Đến Đại hội VII, cương lĩnh của Đảng khẳng định: phát triển nền KT hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trên cơ sở mô hình này Đại hội lần IX đã xác định đường lối phát triển KT của đất nước ta trong thời kỳ qua độ là: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền KT độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp... và tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền KT nhiều thành phần định hướng XHCN nhằm phát triển LLSX và xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN. Duy vật lịch sử Câu 3 - 6 Đổi mới KT làm cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị, song muốn đổi mới KT trước tiên Đảng và Nhà nước phải đổi mới quan điểm nhận thức. Cho nên cùng với đổi mới KT phải tiến hành đổi mới chính trị. Điều đó có nghĩa là đồng thời với đổi mới KT phải từng bước đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, đổi mới con người, đổi mới phong cách lãnh đạo của Đảng và các cơ quan nhà nước, chống tham nhũng trong các cơ quan Đảng và Nhà nước... phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trong tất cả các lĩnh vực KT, chính trị, văn hóa, xã hội, làm cho Nhà nước ta thật sự là một Nhà nước mạnh với đúng nghĩa của từ đó. Trong CNXH, mọi quyền lực thuộc về nhân dân; Đảng là người lãnh đạo để nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cương lĩnh, chiến lược, đường lối. Nhà nước là người đại diện nhân dân, được nhân dân giao cho quyền điều hành quản lý mọi mặt đời sống xã hội trong thực tiễn đổi mới bằng pháp luật. Các đoàn thể nhân dân vừa chăm lo bảo vệ lợi ích,vừa giáo dục nâng cao trình độ cho các thành viên, vừa tham gia quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Đảng Cộng Sản và Nhà nước XHCN có cùng mục đích nên nếu Đảng mất vai trò lãnh đạo đối Nhà nước thì Nhà nước không còn là của nhân dân. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng là ở chỗ biết kết hợp đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng với khả năng quản lý của Nhà nước và sức mạnh của các đoàn thể nhân dân. Cho nên cần gắn chặt công tác xây dựng Đảng với việc cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác quần chúng. Càng nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, càng tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước thì càng thực hiện được tốt quyền lực của nhà nước và càng thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Cần phải tìm những cơ chế, những phương thức thực hiện tốt mối quan hệ đó ở các cấp từ trung ương đến cơ sở. Qua đó ta thấy đổi mới chính trị sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới KT. Cứ như thể đổi mới KT và đổi mới chính trị gắn bó hữu cơ với nhau trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Do đó phải" kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới KT với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị". Muốn tiến hành đổi mới thì phải bảo đảm sự ổn định chính.Song muốn ổn định phải đổi mới và ổn định để đổi mới. Do đó trong việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị chúng ta đã đi những bước thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ giải quyết những vấn đề cấp Duy vật lịch sử Câu 3 - 7 bách nhất và đã chín muồi, với nhận thức, đây là việc rất cấn thiết nhưng đặc biệt phức tạp, nhạy cảm và nếu vội vã để xảy ra sai lầm sẽ phải trả giá rất đắc có khi không còn cứu vãn được. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc không gây mất ổn định chính trị dẫn dến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển KT - XH và thực hiện dân chủ. Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị được Đại hội VIII xác định là nhằm: thực hiện tốt dân chủ XHCN, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoác bác bỏ mọi mưu toan lợi dụng " dân chủ" " nhân quyền" nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Không chấp nhận đa nguyên, đa Đảng. Đảng ta khẳng định đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Và đổi mới phải được thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm trị sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng không phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang dao động mất phương hướng từ thái cực này chuyển sang thái cực khác. Mà phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.( ĐH IX). Ngoài ra, gắn với quá trìng đổi mới hệ thống chính trị là quá trình chống quan liêu, tham nhũng chống những hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tệ quan liêu,tham nhũng làm biến dạng và xói mòn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đó là những vật cản to lớn và thường xuyên của quá trình dân chủ hóa về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Vì vậy Duy vật lịch sử Câu 3 - 8 chống quan liêu và tham nhũng là những yêu cầu cấp bách, thường xuyên cần căn cứ vào những yêu cầu dân chủ để ra øsoát lại cơ chế và bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể để phát hiện những cơ sở của cơ chế và chính sách mà những cán bộ xấu có thể lợi dụng. Đấu tranh chống tệ tham nhũng, quan liêu là một quá trình phức tạp đòi hỏi phải kiên quyết, bền bỉ nghiêm minh từ trên xuống dưới, nghiêm trị mọi kẻ vi phạm dù ở bất cứ cương vị nào. Tóm lại," phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới KT với đổi mới chính trị, lấy đổi mới KT làm trọng tâm đồng thời từng bước đổi mới chính trị" chính là sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưã CSHT và KTTT vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay./.