LIÊN NGÀNH VĔN HÓA - NGHỆ THUẬT - THỂ DỤC THỂ THAO
71Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019
Phát triển kỹ nĕng giao tiếp phi ngôn từ cho sinh viên 
ngành Việt Nam học Trường Đại học Sao Đỏ
Dveloping nonverbal communication skills for students of 
Vietnamse study major Sao Do University
Nguyễn Thị Hương Huyền, Vũ Thị Lương
Email: 
[email protected]
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 02/02/2019
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/12/2019
 Ngày chấp nhận đĕng: 31/12/2019
Tóm tắt
Để trở thành một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp và thành công là niềm mơ ước của biết bao 
bạn trẻ ngày nay. Tuy nhiên, đây là một nghề đòi hỏi cao cả về kiến thức và kỹ nĕng. Một trong những 
kỹ nĕng bắt buộc phải có đối với một hướng dẫn viên du lịch, đó chính là kỹ nĕng giao tiếp phi ngôn từ.
Tại Trường Đại học Sao Đỏ, sinh viên ngành Việt Nam học được trang bị khá đầy đủ kiến thức về 
nghiệp vụ hướng dẫn du lịch. Tuy nhiên, có một thực tế là kỹ nĕng giao tiếp nói chung, kỹ nĕng giao tiếp 
phi ngôn từ nói riêng còn nhiều hạn chế. Điều này cũng có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân 
chủ quan từ phía người học và người dạy. Việc tìm ra các giải pháp để hoàn thiện hơn kỹ nĕng hướng 
dẫn cho sinh viên là một việc làm cần thiết giúp cải thiện chất lượng đội ngũ hướng dẫn viên du lịch Việt 
Nam và chương trình đào tạo ngành Việt Nam học của Trường Đại học Sao Đỏ.
Từ khoá: Kỹ nĕng giao tiếp phi ngôn từ; phi ngôn từ; hướng dẫn viên du lịch; du lịch; sinh viên.
Abstract
Nowadays, being a professional and successful tour guide is the dream of a lot of young people. To 
make it true, a tour guide should have a lot of skills. Beside the knowledge of history, geography, culture, 
habits and customs, the skills of nonverbal communication are extremely important and necessary. 
At Sao Do University, students of Vietnamese study major are adequately provided with specialised skills 
on tour guiding. However, there is a fact that their communication skills in general and their nonverbal 
communication skill in particular are limited. The causes of it come from both the students subjectively 
and the teachers objectively. Therefore, it is required to study the solutions to complete students’ skills. 
It not only contributes to improve the quality of Vietnam tour guides in the current situation, but also 
upgrades the training program of Vietnamse study major at Sao Do University.
Keywords: Nonverbal communication skills; nonverbal communication; tour guide; tourism; student.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đi du lịch hiện nay là một nhu cầu không thể thiếu 
của mỗi người. Ngoài việc di chuyển tới một vùng 
đất khác để lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống, 
du khách mong muốn được nâng cao kiến thức và 
mở rộng các mối quan hệ giao tiếp xã hội. Người 
đóng vai trò chính trong mỗi chuyến đi đó và là 
người đồng hành cùng du khách thực hiện được 
mong muốn của mình không ai khác đó chính là 
người hướng dẫn viên du lịch. Nhưng nếu hướng 
dẫn viên du lịch chỉ có kiến thức và đứng nói như 
một cái máy được lập trình sẵn thì du khách sẽ 
không chi trả cho người làm du lịch như vậy. Du 
lịch là một ngành dịch vụ, vì vậy người hướng dẫn 
viên du lịch phải làm sao để khi thuyết minh trước 
Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Vĕn Độ
 2. TS. Nguyễn Đĕng Tiến
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
72 Tạp chí Nghiên cứu khoa học,Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019
du khách làm du khách cảm nhận được giá trị 
cảnh quan nơi họ đến, khiến họ yêu và trân trọng 
quê hương, đất nước mình hơn. 
Tại Trường Đại học Sao Đỏ có đào tạo ngành Việt 
Nam học - những hướng dẫn viên du lịch tương 
lai của đất nước. Tuy nhiên, qua các kì thực tập 
của sinh viên, trong các phiếu nhận xét về quá 
trình thực tập của sinh viên tại các công ty, đơn vị 
lữ hành, vẫn nhiều ý kiến cho rằng sinh viên chưa 
thuần thục trong việc giao tiếp phi ngôn từ. Điều 
này cho thấy sự cần thiết phải đưa lí luận về giao 
tiếp phi ngôn từ vào nội dung đào tạo bồi dưỡng 
cho sinh viên ngành Việt Nam học với mục đích 
nâng cao chất lượng đội ngũ hướng dẫn viên du 
lịch nói chung và chương trình đào tạo ngành Việt 
Nam học tại Trường Đại học Sao Đỏ nói riêng.
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Mặc dù có rất nhiều tác giả khác nhau cả trong 
và ngoài nước nghiên cứu về giao tiếp phi ngôn 
từ, tuy nhiên chưa có bài viết nào đề cập đến kỹ 
nĕng giao tiếp phi ngôn từ cho sinh viên ngành 
Việt Nam học chuyên ngành Hướng dẫn du lịch. 
Có một số bài nghiên cứu của các trường đại học 
tại Việt Nam nhưng cũng chỉ đề cập tới vấn đề 
giao tiếp nói chung của sinh viên mà không cụ thể 
vào chuyên ngành Hướng dẫn du lịch. 
Công trình “Giao tiếp phi ngôn từ” của tác giả 
Nguyễn Quang [4] đã cung cấp các quan điểm 
và sự phân loại “giao tiếp phi ngôn từ”, tầm quan 
trọng và các nguyên tắc của giao tiếp phi ngôn từ. 
Tác giả Châu Thúy Kiều với đề tài nghiên cứu 
khoa học “Kỹ nĕng giao tiếp của sinh viên sư 
phạm Trường Cao đẳng Cần Thơ” đã hệ thống lý 
luận về giao tiếp và kỹ nĕng giao tiếp, đánh giá 
thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao 
kỹ nĕng giao tiếp cho sinh viên sư phạm Trường 
Cao đẳng Cần Thơ.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Thủy - Trường Đại học 
Khoa học Xã hội và Nhân vĕn có bài viết “Phát 
triển kỹ nĕng giao tiếp cho sinh viên” [12] nêu ra 
những lợi ích của các kỹ nĕng mà đặc biệt là kỹ 
nĕng giao tiếp giúp sinh viên có cái nhìn bao quát 
và tìm ra hướng đi để hoàn thiện các kỹ nĕng; tuy 
nhiên bài viết vẫn còn mang tính lý thuyết và chưa 
được khảo sát trên đối tượng sinh viên cụ thể. 
Như vậy có rất nhiều bài báo, tạp chí, đề tài đề 
cập tới vấn đề kỹ nĕng giao tiếp nói chung, kỹ 
nĕng giao tiếp phi ngôn từ nói riêng của sinh viên 
nhưng chưa có bài nghiên cứu nào đề cập tới kỹ 
nĕng giao tiếp phi ngôn từ của sinh viên ngành 
Việt Nam học, chuyên ngành Hướng dẫn du lịch, 
đặc biệt là tại Trường Đại học Sao Đỏ.
3. GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ 
3.1. Giao tiếp phi ngôn từ và vai trò của giao 
tiếp phi ngôn từ 
Có thể khẳng định rằng giao tiếp phi ngôn từ là 
một bộ phận tối quan trọng trong quá trình giao 
tiếp của con người, giúp việc truyền đạt thông tin 
được chính xác, rõ ràng hơn. Đã có nhiều công 
trình nghiên cứu về giao tiếp phi ngôn từ trên các 
bình diện khác nhau. Theo Knapp [5]: Giao tiếp 
phi ngôn từ hàm chỉ các hành động hoặc các biểu 
hiện ngoài ngôn từ. Các hành động hoặc biểu hiện 
vốn có ý nghĩa được chia sẻ về mặt xã hội đó được 
gửi đi một cách có chủ đích hoặc được diễn giải 
như là có chủ đích và được gửi đi hoặc tiếp nhận 
một cách có ý thức [...]. Giao tiếp phi ngôn từ là 
một thuật ngữ để miêu tả tất cả các sự kiện giao 
tiếp vượt lên trên ngôn từ khẩu ngữ và bút ngữ. 
Định nghĩa này có lẽ chỉ chú ý đến các hiện tố phi 
ngôn từ được sử dụng một cách có ý thức và có 
chủ đích. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện nay 
nhìn chung đều thống nhất rằng giao tiếp phi ngôn 
từ bao gồm cả các hiện tố hữu thức và vô thức, 
chủ định và vô tình; và đó cũng là một trong những 
lý do gây ra các trục trặc trong giao tiếp phi ngôn 
từ không chỉ giao vĕn hóa mà cả nội vĕn hóa. 
Levine và Adelman [6] cho rằng: Giao tiếp phi 
ngôn từ là ngôn ngữ “im lặng” (silent language), 
bao gồm việc sử dụng cử chỉ, diện hiện (biểu hiện 
trên khuôn mặt - NQ), nhãn giao (tiếp xúc ánh mắt 
- NQ) và khoảng cách đối thoại. Với cách nhận 
diện này tác giả nhấn mạnh vào ngôn ngữ thân 
thể và một phần nhỏ của ngôn ngữ môi trường; và 
điều đó có lẽ là chưa đủ để tạo ra một hình ảnh rõ 
nét về giao tiếp phi ngôn từ. Hơn nữa các yếu tố 
cận ngôn thuộc giao tiếp phi ngôn từ không phải là 
ngôn ngữ “im lặng”.
Dwyer [1] có cách nhìn khái quát hơn và có ví dụ đi 
kèm đã ý thức rõ hơn về các bình diện khác nhau 
của giao tiếp phi ngôn từ như cận ngôn và ngoại 
ngôn. Theo tác giả: Giao tiếp phi ngôn từ bao gồm 
toàn bộ các bộ phận của thông điệp không được 
mã hóa bằng từ ngữ, ví dụ: giọng nói, diện hiện 
hoặc cử chỉ và hành động. Tuy nhiên, các ví dụ 
được nêu chỉ giúp ta thấy được các yếu tố cận 
ngôn và ngôn ngữ thân thể mà chưa gợi ra được 
các yếu tố thuộc ngôn ngữ vật thể và ngôn ngữ 
môi trường, mà các yếu tố này là không thể thiếu 
được trong giao tiếp phi ngôn từ.
Dựa trên các khái niệm trên, tác giả xin được đưa 
LIÊN NGÀNH VĔN HÓA - NGHỆ THUẬT - THỂ DỤC THỂ THAO
73Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019
ra khái niệm tổng hợp như sau: Giao tiếp phi ngôn 
từ là toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp 
không thuộc mã ngôn từ, có nghĩa là không được 
mã hoá bằng từ ngữ, nhưng có thể thuộc về cả hai 
kênh ngôn thanh và phi ngôn thanh. Nó bao gồm 
các yếu tố cận ngôn (phi ngôn từ - ngôn thanh) 
như tốc độ, cường độ, ngữ lưu và các yếu tố ngoại 
ngôn (phi ngôn từ - phi ngôn thanh) thuộc ngôn 
ngữ thân thể như cử chỉ, dáng điệu, diện hiện, 
thuộc ngôn ngữ vật thể như áo quần, trang sức
Giao tiếp phi ngôn từ có vai trò quan trọng trong 
cuộc sống. Mehrabian [7] cho rằng: trong tổng hiệu 
quả của một thông điệp, các yếu tố ngôn từ (các từ 
ngữ) chỉ tạo ra 7%; trong khi đó, các yếu tố ngôn 
thanh (bao gồm giọng nói, sự thĕng giáng và các 
âm thanh khác) chiếm tới 38% và các yếu tố phi 
ngôn từ mang lại 55%. Giao tiếp phi ngôn từ giúp 
cho mỗi người trở nên tinh tế hơn, biết tự kiềm chế 
cảm xúc, tự ý thức và điều khiển được ngôn ngữ 
cơ thể. Đồng thời, giao tiếp phi ngôn từ cũng giúp 
người tham gia giao tiếp hiểu rõ đối tác để đưa ra 
những định hướng đúng đắn. Phi ngôn từ còn hỗ 
trợ đắc lực cho ngôn ngữ. Việc sử dụng phi ngôn 
từ trong khi nói giúp thông tin được truyền đạt một 
cách trọn vẹn, rõ ràng và truyền cảm hơn. 
3.2. Biểu hiện của giao tiếp phi ngôn từ và kỹ 
nĕng sử dụng đối với hướng dẫn viên du lịch
Giao tiếp phi ngôn từ được biểu hiện ở nhiều dạng 
khác nhau và mỗi loại lại mang một ý nghĩa riêng. 
Một số biểu hiện của giao tiếp phi ngôn từ và kỹ 
nĕng sử dụng đối với hướng dẫn viên du lịch gồm:
Tốc độ, cường độ, ngữ điệu của giọng nói: Trong 
giao tiếp, người có chất giọng ấm, trong trẻo, ngữ 
điệu lên xuống sẽ hấp dẫn người khác hơn khi 
nói chuyện. Đặc biệt, đối với người làm hướng 
dẫn viên du lịch, giao tiếp phi ngôn từ là giọng 
nói được sử dụng khá nhiều. Tùy vào đối tượng 
thuyết minh, hướng dẫn viên du lịch cần phải điều 
chỉnh giọng nói của mình cho phù hợp. 
Ánh mắt: Đôi mắt được ví là “cửa sổ tâm hồn”, 
trong đó ánh mắt bộc lộ rõ nhất cảm xúc của con 
người, nó thể hiện sự tự tin, sự quan tâm và tạo 
sự chú ý, lôi cuốn người khác. Đối với hướng dẫn 
viên du lịch, sự kết hợp giữa giọng nói và ánh mắt 
sẽ thể hiện sự tự tin, làm cho lời nói truyền cảm, 
thuyết phục và hấp dẫn khách. Ngoài ra, đối với 
mỗi hướng dẫn viên du lịch, ánh mắt thể hiện sự 
bao quát trong việc quản lý đoàn cũng như thực 
hiện các nghiệp vụ hướng dẫn khác.
Nụ cười: Nụ cười được xem là một trang sức trong 
giao tiếp và cũng là phương tiện làm quen hay xin 
lỗi rất tinh tế, ý nhị. Hướng dẫn viên du lịch cần 
phải biết sử dụng nụ cười đúng lúc, hợp lý. Khi 
đón tiếp đoàn khách nụ cười cần nở trên môi để 
du khách cảm nhận được niềm vui của hướng dẫn 
viên khi được phục vụ đoàn; ngược lại khi chia tay 
khách hay thuyết minh tại những điểm du lịch là 
những chứng tích chiến tranh cần phải hạn chế 
nụ cười mà thay vào đó là sự lưu luyến, nuối tiếc 
khi chia tay du khách hay thể hiện sự đau thương, 
mất mát trong chiến tranh.
Nét mặt: Nét mặt là nơi biểu lộ rõ cảm xúc của con 
người. Qua nét mặt, người giao tiếp có thể phán 
đoán được tâm trạng của người giao tiếp cùng 
mình đang vui hay buồn, lo sợ hay buồn chán 
Chính vì vậy với đặc thù nghề nghiệp, hướng dẫn 
viên du lịch khi thực hiện công việc luôn luôn giữ 
nét mặt thoải mái, hòa đồng để tạo nên sự yên tâm 
cũng như tạo lòng tin cho du khách, tránh để du 
khách cảm thấy bất an hoặc cảm thấy hướng dẫn 
viên làm việc chỉ vì nghĩa vụ.
Đôi tay: Trong giao tiếp, muốn thu hút được sự 
chú ý của người nghe, đòi hỏi chuyển động của 
cơ thể càng phải linh hoạt, nĕng động. Trên cơ 
thể người, đôi tay là nơi linh hoạt nhất. Đối với 
hướng dẫn viên du lịch, đôi tay được sử dụng 
nhiều khi chỉ dẫn, thuyết minh về đối tượng tham 
quan. Cử chỉ đôi tay của hướng dẫn viên du lịch 
có vai trò “đánh nhịp” để tạo nên sự nhịp nhàng 
của giọng nói tránh sự khô cứng khi thuyết minh. 
Động tác tay của hướng dẫn viên du lịch còn có 
vai trò truyền đạt và làm rõ các ý trong nội dung bài 
thuyết minh. Bên cạnh đó, động tác tay còn có vai 
trò dẫn dắt, chỉ hướng và xác định đối tượng tham 
quan, hướng di chuyển Chính vì vậy, trong quá 
trình thực hiện nghiệp vụ, hướng dẫn viên du lịch 
luôn phải nắm rõ cách thức thực hiện các tư thế 
tay, sự di chuyển của đôi tay và chú ý tính thẩm 
mỹ của đôi tay. 
Tư thế ngồi, đứng, đi lại: Tất cả những điều này 
đều nói lên phong cách của một con người. Chỉ 
qua những hành động rất nhỏ trong việc ngồi, 
đứng, đi lại, người giao tiếp đều có thể đánh giá 
đó là con người lịch sự hay thô thiển, hoạt bát hay 
chậm chạp Với hướng dẫn viên, khi thực hiện 
công việc của mình thường xuyên phải di chuyển 
trước đoàn khách làm nhiệm vụ dẫn đường và 
đứng khi chỉ dẫn thuyết minh cho du khách. Do đó 
cần phải chú ý, khi đứng cần lựa chọn vị trí thích 
hợp đảm bảo vừa quan sát đoàn khách, vừa chỉ 
dẫn được đối tượng tham quan. Đứng với tư thế 
lưng thẳng, đầu ngẩng vừa phải để có tầm bao 
quát rộng, hai chân dang rộng thích hợp để tạo sự 
thoải mái nhưng không được rộng quá hai bên vai. 
Khi di chuyển phải có mục đích để thuyết trình hay 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
74 Tạp chí Nghiên cứu khoa học,Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019
để dẫn đường cho đoàn khách. Không hấp tấp, vội 
vã nhưng đồng thời cũng không kéo lê giày dép 
khi di chuyển.
Trang phục: Người Việt có câu “Nhìn quân phục 
biết tư cách” để muốn nói cách ĕn mặc cũng biểu 
lộ tính cách của một con người. Trong giao tiếp 
ĕn mặc lịch sự, kín đáo, phù hợp với hoàn cảnh 
là thể hiện sự tôn trọng với người giao tiếp cùng 
mình. Còn đối với hướng dẫn viên du lịch thì ĕn 
mặc phải phù hợp với đối tượng tham quan nhưng 
vẫn phải lịch sự, thể hiện sự tôn trọng khách và 
giữ gìn vẻ đẹp của điểm đến du lịch. Ví như, khi 
dẫn khách đến các nơi tâm linh như đình, đền, 
chùa, miếu mạo hướng dẫn viên phải mặc kín 
đáo, lịch sự. Nhưng khi đến các điểm tham quan 
tự nhiên như biển đảo, hang động hướng dẫn 
viên có thể mặc thoải mái hơn cho dễ dàng trong 
việc vận chuyển, đi lại.
4. THỰC TRẠNG KỸ NĔNG SỬ DỤNG GIAO 
TIẾP PHI NGÔN TỪ CỦA SINH VIÊN NGÀNH 
VIỆT NAM HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SAO ĐỎ
4.1. Thuận lợi và khó khĕn khi đào tạo ngành 
Việt Nam học tại Trường Đại học Sao Đỏ
4.1.1. Thuận lợi
- Mặc dù số lượng sinh viên không đông nhưng 
khoa luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc từ Ban 
lãnh đạo trường. Các trang thiết bị phục vụ cho 
việc dạy và học như loa, bĕng đĩa, đầu sách 
được Nhà trường trang bị đầy đủ và bổ sung theo 
định kỳ.
- Chương trình học chú trọng tính ứng dụng và 
đào tạo theo hướng phù hợp với nhu cầu của xã 
hội. Thời gian thực hành nhiều nên mỗi sinh viên 
có điều kiện rèn luyện kỹ nĕng thuần thục hơn. 
Thêm vào đó là đầu vào của sinh viên là khối C và 
D nên các em có được kiến thức nền tảng trước 
khi học chuyên ngành. Điểm thực hành thực tế 
gần nên khi vào học chuyên ngành sinh viên có 
điều kiện được rèn luyện kỹ nĕng ngay khi học 
xong lý thuyết trên lớp. 
- 100% giảng viên có trình độ sau đại học, trong đó 
25% có trình độ Tiến sĩ và 01 giảng viên đang theo 
học Tiến sĩ tại nước ngoài, tuổi đời các giảng viên 
còn trẻ nên tâm huyết với việc giảng dạy. Giảng 
viên không ngừng học hỏi và nâng cao kiến thức 
thông qua các lớp học bồi dưỡng và nâng cao 
trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 
4.1.2. Khó khĕn
Đặc trưng của ngành du lịch là đi nhiều, hiểu biết 
rộng. Tuy nhiên xuất thân của sinh viên lại đa phần 
từ các tỉnh lẻ, ít có điều kiện để đi du lịch hằng nĕm 
nên mặc dù học chuyên ngành hướng dẫn du lịch 
nhưng kiến thức về các điểm du lịch của sinh viên 
còn hạn chế. 
Khác với các trường đại học ở các thành phố lớn 
như Hà Nội, Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh trong 
thời gian học sinh viên có thể tham gia làm cộng 
tác viên hoặc hướng dẫn cho các công ty du lịch 
ngay từ những nĕm học thứ hai, thứ ba. Tuy nhiên, 
đối với Trường Đại học Sao Đỏ, sinh viên ít có cơ 
hội hơn do vị trí của trường xa các trung tâm, thành 
phố lớn, ít có các công ty, đại lý du lịch. Do vậy, 
sinh viên ít có điều kiện được cọ sát, rèn luyện 
trong thực tế, nâng cao kiến thức và kỹ nĕng.
Trình độ ngoại ngữ thấp nên khi ra trường, các em 
dễ bị lúng túng khi nhận các tour hướng dẫn tham 
quan cho khách quốc tế.
4.2. Đánh giá thực hành kỹ nĕng sử dụng giao 
tiếp phi ngôn từ của sinh viên tại giảng đường
Qua thực tế giảng dạy cho thấy khi sinh viên ngành 
Việt Nam học học Thực hành nghiệp vụ hướng 
dẫn du lịch trên lớp có rất ít sinh viên sử dụng 
thuần thục ngôn ngữ cơ thể khi thuyết minh về 
một điểm du lịch nào đó. Do đó, khi sinh viên lên 
thuyết minh không lột tả được hết giá trị của điểm 
tham quan. Một số sinh viên có sử dụng đôi tay 
để chỉ dẫn nhưng vẫn còn thiếu kỹ nĕng giao tiếp 
trong ánh mắt, nụ cười, nét mặt với sinh viên khác 
trong lớp đóng vai trò như đoàn khách du lịch 
thiếu sự di chuyển trong khi đứng thuyết minh và 
gần như là đứng nguyên một chỗ từ đầu tới cuối 
bài thuyết minh. 
Để đánh giá một cách khách quan về kiến thức và 
kỹ nĕng của sinh viên khi thực hành hướng dẫn du 
lịch, bộ môn đã xây dựng các tiêu chí đánh giá. Do 
có nhiều kỹ nĕng cần đạt được trong mỗi tiêu chí 
nên điểm số đánh giá được lấy là thang điểm 100, 
sau đó được quy ra thang điểm 10. Các tiêu chí 
đó bao gồm: Giới thiệu 5 điểm (giới thiệu hướng 
dẫn viên và công ty; chương trình tham quan; nội 
quy và quy định tại điểm tham quan), Nội dung 
thuyết minh 35 điểm (thông tin đầy đủ, chính xác; 
thời gian hợp lý; phù hợp với đối tượng khách; có 
điểm nhấn và tiểu kết), Kết thúc chuyến tham quan 
5 điểm (khái quát nội dung chính; trả lời câu hỏi 
của khách; giới thiệu sản phẩm địa phương hoặc 
chương trình tham quan khác; lời chào và lời chúc 
trước lúc chia tay), Quản lý đoàn 25 điểm (nói to, 
rõ ràng, dứt khoát khi ra thông báo, chỉ dẫn, nhắc 
nhở. Khách không nói chuyện riêng. Tại điểm: số 
lượng khách đảm bảo. Cảnh báo các mối nguy 
hiểm. Sử dụng các phương tiện nhận dạng (dùng 
ô, dùng cờ) với giải thích hợp lý về hiệu lệnh...). 
Ngôn ngữ cơ thể 30 điểm với các kỹ nĕng cần đạt 
được cụ thể như sau:
LIÊN NGÀNH VĔN HÓA - NGHỆ THUẬT - THỂ DỤC THỂ THAO
75Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4 (67).2019
Tiêu chí Kỹ nĕng cần đạt được Điểm
Ngôn ngữ cơ thể
- Giọng nói: lưu loát, dễ nghe, truyền cảm; không ngọng; có ngữ điệu (trầm, 
bổng); tốc độ nói vừa phải; có điểm dừng và nhấn khi nói 5
- Ánh mắt: phân chia ánh mắt đều tới mọi khách, không quay lưng vào khách 
đồng thời có biểu cảm 5
- Nụ cười: phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và nội dung bài thuyết minh 5
- Nét mặt: biểu cảm, phù hợp với lời thuyết minh 5
- Đôi tay: thuần thục trong việc chỉ dẫn đối tượng tham quan, không bị “thừa” 
trong khi giao tiếp và thực hiện công việc của bản thân 5
- Tư thế ngồi, đứng, đi lại: nhanh nhẹn, hoạt bát, lịch sự 2.5
- Trang phục: lịch sự, sạch, đẹp, phù hợp với chuyến tham quan 2.5
Khi lấy số liệu phân tích cho bài báo, tác giả chỉ 
lấy điểm số đánh giá kỹ nĕng giao tiếp phi ngôn từ 
trên cơ sở tổng hợp từ 5 phiếu bài kiểm tra trong 
học phần Thực hành nghiệp vụ hướng dẫn du lịch 
2 (5 tín chỉ) của 3 khóa Đại học chính quy, khóa 
III, IV và V. Thứ tự xếp loại, đánh giá Kỹ nĕng sử 
dụng ngôn ngữ cơ thể như sau: Xuất sắc 25 - 30 
điểm, Giỏi 20 - < 25 điểm, Khá 15 - < 20 điểm, 
Trung bình khá 10 - < 15 điểm, Yếu 5 - < 10 điểm, 
Kém < 5 điểm.
Bảng 1. Kết quả kỹ nĕng giao tiếp phi ngôn từ