Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục

Tóm tắt. Nguyễn Đôn Phục là cây bút du kí tiêu biểu cho phong cách du kí mang đậm yếu tố Hán cả trong ngôn ngữ và bút pháp. Những tác phẩm du kí của ông là cầu nối của dòng chảy du kí trong lịch sử văn học Việt Nam. Vẻ đẹp du kí của Nguyễn Đôn Phục là sự chọn lọc tinh hoa truyền thống đưa vào văn học hiện đại. Vẻ đẹp đó đã kết tinh nhân cách, trí tuệ cá nhân với tư tưởng cách tân của thời đại để làm nên một phong cách du kí mang tính lịch sử và cổ kính.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 126 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 39-47 This paper is available online at PHONG CÁCH DU KÍ NGUYỄN ĐÔN PHỤC Nguyễn Hữu Lễ Khoa Xã hội, Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa – Vũng Tàu Tóm tắt. Nguyễn Đôn Phục là cây bút du kí tiêu biểu cho phong cách du kí mang đậm yếu tố Hán cả trong ngôn ngữ và bút pháp. Những tác phẩm du kí của ông là cầu nối của dòng chảy du kí trong lịch sử văn học Việt Nam. Vẻ đẹp du kí của Nguyễn Đôn Phục là sự chọn lọc tinh hoa truyền thống đưa vào văn học hiện đại. Vẻ đẹp đó đã kết tinh nhân cách, trí tuệ cá nhân với tư tưởng cách tân của thời đại để làm nên một phong cách du kí mang tính lịch sử và cổ kính. Từ khóa: Nguyễn Đôn Phục, Tùng Vân, du kí, phong cách du kí, yếu tố Hán. 1. Mở đầu Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX là hiện tượng văn học bị bỏ quên đã được tìm lại trong thập niên đầu của thế kỉ XXI. Cho đến nay, du kí Việt Nam chưa có những đánh giá đúng mức về vị thế và vai trò của nó đối với lịch sử văn học, nhất là đối với sự tham gia vào quá trình hiện đại hóa văn học [10, 11]. Du kí Việt Nam giai đoạn này đã thu hút một lực lượng sáng tác đông đảo với nhiều cây bút chủ chốt hoặc có vị thế của các tạp chí lớn như: Phụ Nữ Tân Văn, Nam Phong, Tri Tân, Nam Kỳ tuần báo... Ra đời trong buổi giao thời của văn học Quốc ngữ, du kí đã để lại nhiều dấu ấn trên văn đàn đầu thế kỉ nhiều tác phẩm của những tác giả: Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Trần Huy Bá, Dương Kỵ, Thái Hữu Thành,... Mặc dù Nguyễn Đôn Phục ít được nhắc đến trong các công trình lịch sử văn học, nhưng là một cây bút du kí tiêu biểu cho văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Đặc điểm phong cách nghệ thuật 2.1.1. Triết lí nghệ thuật về "sự đi" Tiếp nhận văn học hiện đại đã loại suy sự tồn tại đồng thời của tác giả (chủ thể sáng tạo) với tác phẩm nhưng sẽ làm cho người ta hoài nghi về tư cách phát ngôn của chủ Ngày nhận bài 11/1/2014. Ngày nhận đăng 25/05/2014. Liên lạc Nguyễn Hữu Lễ, e-mail: nguyenhuule@moet.edu.vn 39 Nguyễn Hữu Lễ thể trong tác phẩm văn học phi hư cấu trong mối quan hệ liên văn bản. Một tác phẩm tự truyện cũng không phải là hoàn toàn là sự thật, là hoàn toàn khách quan trong văn học. Trong thực tiễn của đời sống văn học, người ta còn khéo léo vận dụng cái gọi là khách quan của thể loại để thực hiện các hành vi phát ngôn của mình. Nguyễn Đôn Phục là một trường hợp như thế. Những quan niệm về cuộc sống như: sự chơi thanh cao, trách nhiệm và bản lĩnh nhà văn trước cuộc đời, những sự tốt xấu và lẽ yêu ghét,... có thể thấy được qua một số phát ngôn trực tiếp của Nguyễn Đôn Phục trong những tác phẩm du kí. Chơi theo Nguyễn Đôn Phục, phụ thuộc vào hạng người, sở thích, mục đích mà có các cách chơi khác nhau. Du hành cũng là một cách chơi và cũng tùy thuộc vào đối tượng của nó, "Người đi chơi cũng có lắm hạng, mà cuộc đi chơi cũng có lắm đường...". [1;87]. Trong bốn hạng người du lịch tương ứng với bốn cách chơi: người phong lưu gặp đâu chơi đó, hạng người phú quý chơi theo kiểu trưởng giả học làm sang, hạng người túng quẫn chán đời mà chơi suông, hạng người văn chương chơi cùng sử sách là hạng người trông ra non nước mà ngắm vào sử xanh [1;87]. Cách chơi của hạng người văn chương là cách chơi chữ nghĩa, chơi có mục đích, không chơi phiếm, chơi suông bình thường mà là “cuộc chơi” hướng về quốc hồn quốc túy, chơi theo cốt cách mà không nệ cổ sùng văn. Cách chơi của Nguyễn Đôn Phục trong du kí là cách chơi với cái thú thanh cao, cái vui cổ kính, không chơi theo kiểu phàm tục. Đối với Nguyễn Đôn Phục, sự đi của nhà văn là phải “quan phong”, có nghĩa là quan sát cho xác đáng, nghị luận cho tinh vi [3;182], đi không chỉ thỏa chí du lãm mà còn biết được sự tình, kể ra cho đúng người. Bởi thế nên "Những nhà văn-học đi quan-phong thời cái trách-nhiệm lại càng quan-trọng lắm (...) nếu chỉ quệch-quạc lấy dăm ba trang đuểnh-đoảng, ngâm-nga lấy một vài khúc tơi-bời, để tắc-trách cho sự quan-phong thì cũng là vô-vị và vô-ích vậy" [3;183]. Nhà văn du lịch khác người bình thường ở chỗ, du lịch cũng là hoạt động văn nghiệp, có khi là phương tiện để nhà văn tác nghiệp. Sự du lịch của nhà văn cao quý nên nhà văn cũng có thể trở thành danh nhân một khi kết quả của cuộc hành trình đó làm hài lòng độc giả bằng những thiên du kí. Các miền đất lạ, các nơi cổ tích, núi non sơn thủy hữu tình, danh lam thắng tích trở nên đẹp hơn, nổi tiếng hơn cũng nhờ con người khám phá nó, tôn tạo nó, thăm viếng nó, đề thơ lên nó. Nguyễn Đôn Phục quan niệm về mối quan hệ giữa danh thắng và danh nhân: Du kí của Nguyễn Đôn Phục là một sự triết lí về sự đi: đi là sự trở về. Những bài du kí thăm danh lam, thắng tích, những câu chuyện về các nhân vật lịch sử, tôn giáo là cách mà Nguyễn Đôn Phục lí giải cho sự trở về cội nguồn của con người, là sự nhắc nhở con người: nếu bỏ quên quá khứ thì coi chừng tương lai bị đánh cắp. Trong bài Lời cảm cựu về mấy ngày chơi Bắc Ninh, dụng tâm nghệ thuật của Nguyễn Đôn Phục hướng đến triết lí sự đi là sự trở về với chính mình, và thông qua câu chuyện gia cảnh để nói về hoàn cảnh đất nước, thông qua câu chuyện gia đình để tự đánh giá mình: Ký-giả thiếu thời học chữ Nho, thật là người biếng học. Nhờ đến Bắc Ninh, nơi cách Hà Nội không xa lắm, đi xe máy xe lửa chỉ trong vài giờ, nhưng nhờ có chuyến đi này tác giả mới biết: nơi ông Đổng Thiên phá giặc Ân, ông Lý Thường Kiệt phá quân Tống ở đó, biết được đây là quê hương của Lý Bát Đế, biết được một điều rất quan trọng với con người: những cái gần bên mình 40 Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục nếu không ra đi tìm hiểu nó thì cũng không biết gì cả, có đi mới tìm thấy những tình cảm đã qua mà con người tưởng rằng đánh mất nó... Đó là triết lí về lẽ sống của con người theo quan niệm nhà Nho là như vậy. Luận về sự chơi, sự đi du lịch nói trên xuất phát từ cái tâm của Tùng Vân Đạo Nhân Nguyễn Đôn Phục, cái tâm có trách nhiệm, cái tâm tự trọng noi theo các bậc danh Nho. Cái tâm dùng để điều khiển cái tài, cái tài lại dùng tư tưởng để dẫn dắt con chữ biến hóa trong văn chương, để văn chương khi chuyển sang quốc âm cũng không bạc đãi tinh hoa Hán học. Đó là cái tạo nên sắc thái văn phong du kí Nguyễn Đôn Phục trong vườn hoa du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 2.1.2. Tiếp cận đối tượng trên phương diện lịch sử và nhân cách nhà Nho Cách chơi và cách viết có mối quan hệ với nhau. Du kí của Nguyễn Đôn Phục thường tập trung vào các đề tài: chơi cổ tích, chơi núi, chơi xuân. Dù ở đề tài nào, Nguyễn Đôn Phục lấy điểm nhìn lịch sử làm hệ quy chiếu, dù tả cảnh hay thuật chuyện du hành cũng để nói chuyện lịch sử, dùng điển tích lịch sử để xây dựng cấu trúc tác phẩm. Từ điểm nhìn lịch sử mà thể giới trong các bài du kí: Bài kí chơi Cổ Loa, Cuộc xem cổ tích miền Hải Dương, Cuộc đi quan phong làng Thượng Cát, Lời cảm cựu mấy ngày chơi Bắc Ninh, Cuộc chơi Sài Sơn,... Nguyễn Đôn Phục đưa người đọc đến với thế giới cổ tích của các nhân vật và sự kiện lịch sử mà ông quan niệm nước nào đã có lịch sử thì dấu vết của tiền nhân để lại tức là cổ tích, cổ tích tức là quốc hồn [2;53]. Đó là thế giới được xây dựng bởi các tư liệu lịch sử và văn hóa, văn học mà tác giả tích lũy được. Những tư liệu này chỉ được khơi dậy tại thời điểm tác giả đặt chân đến địa danh hay di tích mang sự tích đó. Khi đến di tích thành Cổ Loa, Nguyễn Đôn Phục đã làm sống lại truyền thuyết thành Cổ Loa bởi mục đích tìm kiếm dấu tích lịch sử chi phối cuộc hành trình này. Nguyễn Đôn Phục có tài kể chuyện lịch sử, cái tài của một nhà Nho kinh thông chữ nghĩa, hiểu biết về điển tích, điển phạm, giàu xúc cảm và trí tưởng tượng. Câu chuyện tường thuật du lịch của Nguyễn Đôn Phục đã nhuốm màu sử tích. Nhân vật Mị Châu là tâm điểm của sử tích (khác với truyền thuyết tô đậm yếu tố thần kì của chiếc nỏ thần) nên khi đến đoạn cuối câu chuyện, lúc thần Kim Quy xuất hiện, không có cảnh An Dương Vương giết con, mà chỉ là sự xả thân của nàng để tỏ nỗi oan khuất. Nói xong, thì nước mắt với nước máu, nước triều tuôn ra, mà lai láng trong miền Nam Hải. Than ôi! Than ôi! Oan thay! Oan thay! Giọng kể đầy cảm xúc xuất phát từ tâm khảm của một con người tự xưng là kí-giả, thuộc giống đa tình thâm bỉ những phường mắt trắng ngũ luân; bình sinh vẫn kính nàng và thương nàng; khi chép truyện nàng, cũng muốn tìm ra một cái triết lí, để gỡ tội cho nàng, giải oan cho nàng,...[1;207]. Cảm quan lịch sử kéo Nguyễn Đôn Phục đi xa hơn để khát quát lên vấn đề mà chưa có nhà sử học nào đưa ra phán quyết như thế: Nhận xét ra, lịch-sử nước Nam ta, có hai người đàn bà, thiên-cổ vẫn phụ cái án vong-quốc. Một là nàng Thục Mỵ Châu. Hai là bà Lý Chiêu Hoàng. Nhưng Chiêu Hoàng là người bị-động, mà Mị Châu lại là người chủ-động... [1;208]. Quan niệm lịch sử như là một phương thức nghệ thuật trong mối liên hệ giữa cá thể và cộng đồng, Nguyễn Đôn Phục cho rằng: Phàm con người ta sinh ra ở đời, cái lịch-sử thiếu-thời của mình, dù vui-vẻ, dù gian-nan, dù li-kì, dù chuyết-lậu thế nào cũng tức là 41 Nguyễn Hữu Lễ cái lịch-sử bắt đầu chú-tạo ra cái hình ảnh mình. Vả lại cái lịch-sử trong một con người dù thủa lớn, dù thủa nhỏ thế nào, cũng đều có trực-tiếp với non-sông, với nhân-vật, với cỏ hoa trong một cõi. Ăn cơm mới há lại quên chuyện cũ đó hay sao [4;348]. Lịch sử của con người trong lịch sử non sông đất nước. Lịch sử non sông đất nước có được chỉ khi con người nhận thức được mình tồn tại, nhận thứ được lịch sử của mình. Quan niệm này thể hiện trong du kí của ông để xây dựng cấu trúc truyện kể lồng trong tác phẩm du kí: kể chuyện danh nhân lịch sử, văn hóa bằng cảm quan của người đến thăm di tích gắn liền với nó; kể chuyện mình như là một kiểu nhận thức và đối ứng lịch sử. Trong thế giới nghệ thuật du kí của Nguyễn Đôn Phục có nhiều nhân vật không chỉ đầy đủ tên tuổi, danh tính, dấu tích và công trạng của họ mà còn cả số phận, tính cách thông qua cảm nhận và trí tưởng tượng của tác giả. Mỗi tác phẩm có nhiều nhân vật, có tên, có tuổi, có gốc tích trong lịch sử; có những nhân vật được tác giả định danh dựa trên sự cảm phục tài năng của họ. Câu chuyện lịch sử trong du kí của ông chỉ hướng đến nhân vật quan trọng, hoặc ít ra là ông yêu mến, cảm phục để kể lại. Trong tác phẩm Cuộc xem cổ tích miền đông bắc tỉnh Hải Dương có nhiều tên nhân vật lịch sử được nêu ra: Chu Văn An, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Phạm Sư Mạnh,... và có tên hai nhân vật nữ được tác giả gọi là tài nữ Nguyễn Thị Lộ, và nữ khảo quan đời Trịnh Nguyễn Thị Du. Trong tác phẩm này, có hai nhân vật lịch sử được tác giả kể lại một cách chi tiết: Phạm Sư Mạnh và Nguyễn Thị Du. Cụ Phạm Sư Mạnh là người được tác giả cảm phục nhất, bởi cụ là người tài năng rộng rãi, khí độ cứng mạnh, thật là một nhân vật có quan hệ với cuộc đời. Cụ Phạm Sư Mạnh có đầy đủ nhân cách và bản lĩnh nhà Nho nên được tác giả gọi là Nho tướng đời Trần. Về tính cách, cụ lại hay thích đi chơi lịch-lãm, những nơi sơn-thủy thanh-kì, đi đến đâu có thơ ngâm đến đấy, thơ có vẻ phóng-dật hào-hùng [5; 57]. Nguyễn Đôn Phục không phải là nhà Nho thủ cựu mà là một nhà Nho thức thời. Về thú đọc truyện, ông thích Quan Âm Thị Kính, Kim Vân Kiều Truyện,... là những truyện về thân phận nữ giới. Kể chuyện lịch sử, ông thường chú trọng đến nhân cách và số phận những tài nữ. Nhân vật trong các câu chuyện sử tích của ông thường có dấu hiệu về nhân cách chí sĩ hoặc mang bóng dáng nhà Nho. Đó là bởi cái tâm nho học của ông vậy. Sự uyên bác lịch sử đã đào luyện ngòi bút của Nguyễn Đôn Phục trở nên linh hoạt hơn, tinh vi hơn ở tài năng hư cấu lịch sử. Nguyễn Đôn Phục không hư cấu nhân vật mà chỉ hư cấu sự kiện, không “xâm phạm” về mặt tư tưởng đối với lịch sử dân tộc mà chỉ dựng bối cảnh để nói về lịch sử gia đình hay của một địa phương. Trong Lời cảm cựu mấy ngày chơi Bắc Ninh, Nguyễn Đôn Phục thuật lại hoàn cảnh bản thân mình trong bối cảnh loạn lạc của đất nước lúc ông tuổi mới lên năm, lên sáu lên bảy. Trong bối cảnh quân giặc giày xéo khắp nơi, người dân chạy loạn khổ ải thì xuất hiện người hào kiệt khả kính là ông Nguyễn Hữu Thống người làng Cổ Loa là người hào kiệt vùng đó. Đây là một kiểu tôn vinh con người thành nhân vật lịch sử theo quan niệm dân gian. Nguyễn Đôn Phục đến Bắc Ninh, hồi tưởng lại kí ức những ngày thơ ấu, lúc theo mẹ chạy loạn được người hào kiệt cứu giúp, lúc đi chơi với bạn hữu trong rừng làm bạn với mấy chú tiều phu, lúc nghe tiếng cười tiếng hát trong rừng, đến năm Canh Tí, mình tuổi hai mươi ba mới bắt đầu từ 42 Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục đất Bắc Ninh xuống Tràng Thi Nam Định,... chỉ là tưởng tượng để nói lên những lời cảm cựu về mảnh đất, con người đã nuôi dưỡng mình thủa thiếu thời, là lời nhắc nhở đừng quên quá khứ, bởi kí-giả tự đấy là người Hà Đông, không phải người Bắc Ninh [4;355]. Đó cũng chính là thái độ du lịch của Nguyễn Đôn Phục, biết ơn những nơi đem đến sự yêu thích và cơ hội giải bày mà lòng cảm tưởng ấy không phải cuộc đi chơi này mới phát hiện [4;332]. Hư cấu sử tích của Nguyễn Đôn Phục không giống với tiểu thuyết lịch sử ở chỗ, tiểu thuyết lịch sử hư cấu dựa trên cốt truyện xoay quanh nhân vật lịch sử mà thêm chi tiết để nhân vật lịch sử trở thành hình tượng, còn trong du kí của Nguyễn Đôn Phục là đưa nhân vật lịch sử vào trong cốt truyện hư cấu để minh họa cho một quan điểm nào đó của tác giả. Sự hư cấu được nói ở đây chính là tác phẩm Cảnh Lạc Hương. Đó là một nơi du hí huyễn tưởng không có ở thế gian này, một nơi chứa đầy triết lí của sự hoan lạc. Bởi thế nên Nguyễn Đôn Phục đã lấy lời danh nhân để luận về chuyện này: đó là lời khuyên của trạng nguyên như Tống Chi Vấn (Phiếm đảng làm vui không phải sự ta – là ý bảo người đời không nên vào chốn Lạc hương), trạng nguyên Đỗ Thiếu Lăng (Xét kỉ lẽ vật nên làm vui – là ý bảo người đời nên vào Lạc Hương để làm vui, không vui thì cũng thiệt), trạng nguyên Phạm Trọng Yêm (Thiên hạ chửa lo ta nên lo trước, thiên hạ vui rồi ta sẽ vui sau – là ý bảo người đời nên đi trước thiên hạ mà lo việc đời, đi sau thiên hạ mà vào Lạc Hương), trạng nguyên Trương Uẩn Cổ (Vui không nên vui quá, vui quá hóa buồn – là ý bảo người đời vào Lạc Hương thì vào nhưng phải biết đường ra). Cảnh Lạc Hương [6;166-173] là bài phiếm du, nhưng có nhiều ý vị, không phải bởi câu chuyện tưởng tượng hay ý nghĩa giáo dục của tác phẩm mà chính là triết lí về sự chơi trong du kí Nguyễn Đôn Phục. 2.1.3. Nghệ thuật ngôn từ Du kí của Nguyễn Đôn Phục như là một hình thức đối thoại nghệ thuật giữa hai trường phái tư tưởng: cách tân và thủ cựu, trong đó đông đảo nhà văn Hán học bị xếp chung vào lớp “hủ Nho”. Đứng chân trong đội ngũ làm báo một tờ tạp chí văn hóa của người trí thức là Nam Phong tạp chí, Nguyễn Đôn Phục cũng như nhiều nhà Nho khác gắn bó máu thịt với văn chương truyền thống nhưng cũng đều có thể sử dụng chữ Quốc ngữ, đặc biệt lại được sự hỗ trợ khích lệ của những tờ tạp chí với chủ trương “điều hòa tân cựu”, “bảo tồn cổ học”...[8;147] đã phát huy tinh hoa cổ học vào trong sáng tác để tạo ra một kiểu văn du kí đặc trưng của những thập niên đầu thế kỉ XX. Dựa vào phương thức tiếp cận tư tưởng – cấu trúc để xác định đặc điểm phong cách, du kí của Nguyễn Đôn Phục có thể được xem xét ở các yếu tố: kết cấu và cấu trúc văn bản, phương thức kể chuyện và người trần thuật, tổ chức ngôn ngữ và sử dụng chất liệu, điển pháp – điển phạm – điển tích, giọng điệu và lời văn. Du kí của Nguyễn Đôn Phục là kiểu du kí “chơi cổ tích”. Nhiều bài kí “chơi cổ tích” của Nguyễn Đôn Phục cũng bắt đầu bằng hai từ “chơi” và “xem” (chơi Cổ Loa, chơi Sài Sơn, chơi Bắc Ninh, xem cổ tích, quan phong). Những bài không có từ “chơi” hoặc “xem” đều được đưa vào mục “Văn uyển” của Nam Phong tạp chí như các bài Ngọc Tân du kí và Du Tử trầm sơn kí đi kèm với phụ đề thể loại là “tản văn”; bài Cảnh lạc hương theo quan niệm tác giả thuộc dạng bài cầm bút viết bỡn như phần chú thêm ở đầu bài du kí cũng nằm trong kiểu bài du kí này. Hai kiểu bài du kí của Nguyễn Đôn Phục thể hiện hai cách 43 Nguyễn Hữu Lễ chơi của từng kiểu người: chơi suy nghiệm của kẻ phong nho và chơi đàm văn của văn sĩ. Tuy nhiên, cách phân ra hai kiểu như thế này chỉ là tương đối, bởi vì dù chơi kiểu gì, dù viết lách nghiêm túc hay tùy hứng, phóng bút như thế nào thì du kí của Nguyễn Đôn Phục cũng không vượt ra khỏi quan niệm về sự chơi thanh cao, lịch lãm, mang màu sắc cổ điển được. Những bài du kí “chơi cổ tích” của Nguyễn Đôn Phục cũng có cốt truyện hành trình như một số tác phẩm của những nhà văn đương thời nhưng chỉ khác ở yếu tố liên kết các thành phần cốt truyện trong một chỉnh thể. Yếu tố liên kết cốt truyện trong du kí của Nguyễn Đôn Phục khá đa dạng và linh hoạt, không phải là mạch cảm xúc tự nhiên của tác giả thể hiện một cách tự do mà là một sự chủ ý trong cấu trúc chủ đề tác phẩm. Yếu tố liên kết cốt truyện du kí Nguyễn Đôn Phục thường được thể hiện ở hai dạng cơ bản: câu chuyện cổ tích lịch sử và lời bình luận của tác giả. Tác phẩm Bài kí chơi Cổ Loa tiêu biểu cho dạng cấu trúc này. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đôn Phục dành một trang văn để luận về sự chơi, cho việc giới thiệu đi chơi Cổ Loa thành chỉ một câu: Như ngày rằm tháng tám năm Khải-Định thứ chín, lịch Tây năm 1924 vừa rồi, tôi với ông Phạm Quỳnh, ông Nguyễn Hữu Tiến, ông Phạm Văn Duyệt cùng nhau đi chơi Cổ-Loa-thành há vị gì đâu, cũng vì chút cảm tình với lịch-sử mà đi chơi vậy [1;203]. Với mục đích là “cuộc đi chơi lịch sử”, chuỗi câu chuyện lịch sử được kể lại. Sau đó là chuyện đi thăm miếu, thăm đình, thăm nơi thờ An Dương Vương, thăm bi đình, thăm mộ nàng Mị Châu. Đến đâu, tác giả cũng luận bàn sự tích. Phần tả người, thuật chuyện đi được lồng trong những lời diễn giải đó nên người đọc khó nhận ra. Lối thuật chuyện kiểu “vòng vo tam quốc” của Nguyễn Đôn Phục được sử dụng như là phương “trì hoãn” để kéo dài hành trình với ý nghĩa: cuộc thăm Cổ Loa, hành trình về với lịch sử lâu đời của dân tộc là cuộc hành trình lâu dài. Lời bình trong tác phẩm của Nguyễn Đôn Phục là những câu văn bình phẩm về đối tượng, sự liên hệ bản thân và có nhiều câu mang tính chất châm ngôn, triết lí. Cho nên xưa nay không gì thú bằng cái cảnh lên lầu, mà cũng không gì buồn bằng cảnh lên lầu. Nhưng anh em ta thì không thế; khi mới sinh ra đời không dám chọn ngày mà sinh, khi muốn vỗ nợ đời cũng không dám cả gan mà vỗ, không phải là không có dạ thơ, nhưng thơ cũng không dám ngâm phí ngâm hoài, không phải là không có nước mắt, nhưng nước mắt cũng không dám lạm-dụng về đường vô-ích; khi đăng-lâm du-lãm, âu cũng chỉ một niềm trông xa non nước mà ngắm lại sử xanh, để cầu lấy một cái gương cho thân thế ấy mà thôi [11; 210]. Ngoài ra, Nguyễn Đôn Phục cũng thường dùng những đoạn thán văn chứa thán từ để kết thúc một câu chuyện, một sự việc nào hay bộc lộ tình cảm của mình về người, vật, việc gặp phải trên lộ trình. Có thể lẩy ra đây những câu chứa thán từ trong các đoạn thán văn trong Bài kí chơi Cổ Loa: Chao ôi! Cái thần nỏ ấy... [1;205], Trời kia nở phụ đấy ư! Trời kia nở phụ đấy ư!... [1;206], Trời kia chẳng thấu cho ư! Trời kia chẳng thấu cho ư!... [1;207] Than ôi! Cái cây có tội gì...[1;209], Than ôi! Nàng Mị Châu bị oan! Hòn đá này cũng bị oan!... [1;209], Thương ôi! Oan tình chưa tỏ cho ai!...[1;209], Than ôi! Tự cổ hồng nhan đa bạc phận... [1;214]. Hình thức cảm thán để liên kết trong cấu trúc tác phẩm được thể hiện trong nhiều bài khác của Nguyễn Đôn Phục. 44 Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục Người trần thuật trong du kí Nguyễn Đôn Phục xuất hiện ở hai vị thế: cá nhân của tác giả và người đại diện cho phát ngôn xã hội; thường xuất hiện người kể chuyện xưng “tôi” và người kể chuyện xưng “kí giả”. Người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện trong vai trò đại diện cho cá nhân mình phát biểu quan niệm, tự thuật bản thân; xưng “kí giả” trong vai trò là nhà văn, cho phép vượt qua giới hạn hiện thực khách quan để tiếp cận hiện thực chủ quan. Đơn cử một vài trường hợp sau đây: Trong bài du kí Lời cảm cựu mấy ngày chơi Bắc Ninh, người kể chuyện xưng “tôi” trong những trường hợp: Phát biểu qu