Sự ra đời của báo tiếng dân

Bán tuần báo Tiếng Dân là một cơ quan ngôn luận tư nhân, độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung Kỳ). Dưới sự điều khiển của Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947)—một nho gia thuộc trường phái duy tân theo kiểu mẫu Pháp thuộc đầu thế kỷ XX, từng bị đầy ra Côn Đảo 13 năm vì tội xúi dục dân chúng làm loạn—Tiếng Dân xuất bản đều đặn suốt gần 16 năm dài, từ 1927 tới năm 1943. Dù tòa soạn và nhà in riêng đặt tại Huế, Tiếng Dân phát hành khắp miền Trung, tạo ảnh hưởng khá lớn trong giới trí thức địa phương, và là nguồn thông tin khả tín cho các nhà nghiên cứu về An Nam thời Pháp thuộc cũng như tinh thần quốc gia mới tại Việt Nam từ năm 1925 tới giai đoạn Nhật chiếm đóng Đông Dương (1940-1945).

pdf25 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1585 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sự ra đời của báo tiếng dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự ra đời của báo tiếng dân Bán tuần báo Tiếng Dân là một cơ quan ngôn luận tư nhân, độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung Kỳ). Dưới sự điều khiển của Tiến sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1876- 1947)—một nho gia thuộc trường phái duy tân theo kiểu mẫu Pháp thuộc đầu thế kỷ XX, từng bị đầy ra Côn Đảo 13 năm vì tội xúi dục dân chúng làm loạn—Tiếng Dân xuất bản đều đặn suốt gần 16 năm dài, từ 1927 tới năm 1943. Dù tòa soạn và nhà in riêng đặt tại Huế, Tiếng Dân phát hành khắp miền Trung, tạo ảnh hưởng khá lớn trong giới trí thức địa phương, và là nguồn thông tin khả tín cho các nhà nghiên cứu về An Nam thời Pháp thuộc cũng như tinh thần quốc gia mới tại Việt Nam từ năm 1925 tới giai đoạn Nhật chiếm đóng Đông Dương (1940-1945). Đã có nhiều nghiên cứu về Huỳnh Thúc Kháng và Tiếng Dân. Trong khi một số biên khảo đã khá đầy đủ và trung thực,(1) nhiều sách báo bằng Việt ngữ khó qua khỏi khuôn thức “cung văn” hay “đào mộ” quen thuộc tại Việt Nam.(2) Trong dịp du khảo tại Việt Nam từ tháng 11/2004 tới tháng 5/2005 vừa qua, chúng tôi được may mắn đọc một số hồ sơ về sinh hoạt báo chí Việt Nam, đặc biệt là tư liệu về báo Tiếng Dân của công ty Huỳnh Thúc Kháng. Hơn 20 tài liệu này cung cấp những thông tin chính xác nhất về giai đoạn Tiếng Dân được chuẩn bị ra mắt độc giả miền Trung từ 1926 tới 1928.(3) Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày tinh thần quốc gia Việt Nam mới bắt đầu bộc phát (1925- 2005)—thể hiện qua phong trào xin ân xá cho nhà ái quốc Phan Bội Châu (1868-1940), tiếp nối bằng quốc táng nhà nho duy tân Phan Châu Trinh (1872-1926)—chúng tôi công bố những tư liệu mới tham khảo để phần nào đóng góp vào việc san định lịch sử cận đại Việt. I. DIỄN TIẾN VIỆC RA BÁO TIẾNG DÂN (8/10/1926-1/5/1928): Kho văn khố của Tòa Khâm sứ An Nam (HC/RSA) tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia [TTLTQG] 2 Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) có một hồ sơ ghi lại khá rõ diễn tiến sự việc Huỳnh Thúc Kháng xin ra báo Tiếng Dân từ ngày 8/10/1926 tới khi báo ra mắt số 74 ngày 1/5/1928. Hồ sơ này có trên 20 tài liệu cơ bản: Tài liệu 1: Ngày 8/10/1926, Huỳnh Thúc Kháng chính thức làm đơn gửi XLTV Toàn quyền Pierre Pasquier (10/1926-5/1927), xin được phép xuất bản một tờ báo bằng chữ Việt mới [Quốc ngữ], với tên Tiếng Dân, đặt trụ sở tại Tourane (Đà Nẵng). Mục đích nhắm sử dụng cơ quan ngôn luận này để phổ biến những tư tưởng ôn hòa hầu đưa vào kỷ luật những khuynh hướng dị biệt biểu lộ tại một khúc quanh khó khăn của sự tiến hóa tại An Nam (Trung kỳ), và hướng dẫn dân chúng tiến bộ trong trật tự và hòa bình. Về khuôn khổ, giống như những báo quốc ngữ đang lưu hành ở Đông Dương. Về phương diện pháp lý, sẽ tuân theo luật lệ hiện hành. Đơn viết bằng Pháp ngữ, đánh máy, với hàng chữ viết tay ở cuối thư: “Huynh Thuc Khang, Président de la Chambre des représentants du peuple d’Annam” [Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Viện Dân biểu An Nam]. Đính kèm là bản “Chương trình báo “Tiếng Dân” [Programme du Journal “Tieng Dan”]. Gồm 2 trang đánh máy, với 16 điều, đánh số từ 1 tới 16. Điều 1: Báo sẽ ra hai lần một tuần, vào các ngày thứ Tư và thứ Bảy. Điều 3: Lý tưởng phục vụ lợi ích quốc gia an-nam-mit [la nation annamite], sẽ không phục vụ chủ nghĩa Cộng Sản [se gardera de servir le communisme], và tôn trọng giới lãnh đạo Đông Dương [respectera . . . la Souveraineté en Indochine]. Điều 4: Bài vở chọn đăng theo 4 nguyên tắc: a. Khiến chính quyền biết được nguyện vọng của dân. b. Đưa ra ánh sáng quyền lợi chung của dân chúng và những điều tệ hại khiến họ bị phiền nhiễu. c. Giúp chính quyền thực hiện tất cả các kế hoạch chính trị cởi mở [libéral]. d. Tiếp tay vào việc giáo dục đạo đức, tri thức, chính trị và kinh tế cho dân An- nam-mít. Điều 14: Góc mặt, trên đầu trang nhất báo sẽ dùng để trích đăng những tư tưởng hay cách ngôn từ tác phẩm của các triết gia kim cổ. Điều 16: Tất cả những điều trên có thể cải đổi, sau khi đã được sự chấp thuận của chính quyền. Phía dưới tài liệu ghi “Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Viện Dân biểu An Nam, ngụ tại xã Thanh Bình, Tam Kỳ, Quảng Nam,” với chữ ký của HTK. Tài liệu 2: Ngày 9/10/1926, Huỳnh Thúc Kháng viết thư cho XLTV Khâm sứ J. d’Elloy, nhờ chuyển cho Toàn quyền đơn xin ra báo ngày 8/10, đồng thời yêu cầu d’Elloy ủng hộ. Ông cho biết đang ngụ tại nhà Nguyễn Khoa Tùng, Đập Đá, Huế. [Thư viết tay] (RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 3: Một đoạn trích từ phiên họp Cơ Mật Viện ngày 13/10/1926, dưới sự chủ tọa của Pasquier. Pasquier nói Phan Bội Châu từng xin ra báo, nhưng đã được khuyên nên rút đơn. Nay Huỳnh Thúc Kháng cũng xin ra báo. Muốn được biết ý kiến Viện Cơ Mật. Thượng thư Hồ Đắc Trung (Bộ Lễ và Học) và Tổng lý Nội các Nguyễn Hữu Bài đều đồng ý, với điều kiện phải kiểm soát và kiểm duyệt chặt chẽ. (Extrait du procès-verbal de la 8è séance de 1926 (13 Oct 1926) du Conseil de Co Mat; RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 4: Ngày 14/10/1926, Huỳnh Thúc Kháng lại nhờ XLTV Khâm sứ chuyển thư cho Pasquier, bổ túc thêm chi tiết cho đơn xin ra báo ngày 8/10: Đích thân HTK sẽ là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tiếng Dân. (RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 5: Ngày 6/11/1926, trong thư gửi d’Elloy, Pasquier chấp thuận đề nghị ngày 18/10/1926 của J. d’Elloy: đồng ý trên nguyên tắc cho Huỳnh Thúc Kháng xuất bản một tờ báo. Tuy nhiên chỉ có quyết định cuối cùng sau khi nhận được đầy đủ thông tin cần thiết. (RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 6: Ngày 12/11/1926, D’Elloy cho Huỳnh Thúc Kháng biết là đã chấp thuận trên nguyên tắc việc ra báo Tiếng Dân. Tuy nhiên, muốn biết thêm chi tiết về ban biên tập, tòa soạn cũng như tài chính. Tài liệu 7: Ngày 26/11/1926, Huỳnh Thúc Kháng nhờ Đốc lý Tourane chuyển thư cho D’Elloy, nêu rõ thêm chi tiết về tòa soạn và trị sự của Tiếng Dân. Báo có nhà in riêng, về tài chính sẽ lập một công ty vô danh. Phụ tá HTK có Đào Duy Anh, Trần Đình Phiên (trị sự), một thư ký kế toán và một thư ký phụ trách văn thư. (Ngày 27/11/1926, Đốc lý Tourane chuyển thư [ngày 26/11/1926] HTK cho D’Elloy). Tài liệu 8: Ngày 6/12/1926, D’Elloy [qua công sứ Hội An] cho Huỳnh Thúc Kháng biết đã nhận được tài liệu ngày 26/11/1926 về việc ra báo Tiếng Dân. D’Elloy đồng ý, nhưng với điều kiện tòa soạn phải đặt ở Huế. Tài liệu 9: Ngày 14/12/1926, Huỳnh Thúc Kháng [lúc này ở nhà Lê Ấm, Giáo sư Quốc tử Giám, tại Huế] gửi thư viết tay cho D’Elloy để hồi đáp thư ngày 6/12/1926. Theo HTK, công ty in báo sẽ là một công ty cổ phần, mà không phải công ty vô danh như đã viết trong thư ngày 26/11/1926. Về địa điểm đặt tòa soạn, HTK muốn nhấn mạnh đã chọn Tourane, nếu rời ra Huế phí tổn di chuyển quá nặng, trong khi công ty nghèo. Ngoài ra, Tourane là thành phố thương mại, trong khi Huế là một trung tâm văn hóa, nơi có nhiều trào lưu tư tưởng và chính kiến dị biệt, chắc chắn có những tư tưởng không phù hợp với chủ trương ôn hòa và mục tiêu giáo huấn đám đông của Tiếng Dân. Bản chất vốn không ưa những nơi náo nhiệt và thích làm việc trong cảnh thanh tịnh, HTK muốn giữ tòa soạn Tiếng Dân ở Đà Nẵng. Hơn nữa, vì dân trí người Việt còn lạc hậu, HTK muốn Tiếng Dân ít bị ảnh hưởng vì những áp lực chính trị đa tạp như ở Huế. HTK cũng yêu cầu trong buổi gặp mặt ngày hôm sau, 15/12, để bàn về trụ sở Viện Dân Biểu, D’Elloy sẽ cho phép HTK trình bày thêm về nơi đặt tòa soạn. Tài liệu 10: Báo cáo (Note) ngày 6/1/1927 của Công sứ Phan Thiết gửi D’Elloy về những thương gia Phan Thiết muốn góp cổ phần xuất bản Tiếng Dân. Tài liệu 11: Ngày 11/1/1927, từ Tourane Huỳnh Thúc Kháng viết thư cho D’Elloy về vấn đề tòa soạn và tài chính của Tiếng Dân [để giải thích thêm chi tiết đã nêu lên trong buổi gặp mặt ngày 5/1/1927]: Tòa soạn Tiếng Dân đặt tại Đà Nẵng. Huỳnh Thúc Kháng sẽ là Chủ nhiệm (Directeur Gérant) kiêm Chủ bút (Rédacteur en Chef). Phụ tá biên tập là Đào Duy Anh (1904-1988), một cựu giáo viên. Quản trị giao cho Trần Đình Phiên, thương gia ở Phan Thiết. Về tài chính, sẽ lập một công ty cổ phần [une société en commandite par actions] thay vì công ty vô danh. Yêu cầu D’Elloy ban hành nghị định càng sớm càng tốt. [Thư viết tay, 3 trang]. Tài liệu 12: Ngày 14/1/1927, Huỳnh Thúc Kháng gửi thư cho D’Elloy, xin được yết kiến Toàn quyền trong dịp ghé Huế, và nhờ chuyển thư đề cùng ngày gửi cho Pasquier. (HTKháng ngụ tại nhà Nguyễn Khoa Tùng, Đập Đá, Huế) Tài liệu 13: Ngày 14/1/1927, Huỳnh Thúc Kháng viết thư cho Pasquier, xin yết kiến để trình bày về báo Tiếng Dân. Tài liệu 14: Ngày 12/2/1927, Pasquier ký Nghị định (Arreté) cho phép Huỳnh Thúc Kháng xuất bản tờ Tiếng Dân. Tài liệu 15: Ngày 16/2/1927, D’Elloy chỉ thị Sở Liêm Phóng (Sureté en Annam) theo dõi kỹ Tiếng Dân. Sở Liêm Phóng phải lưu trữ và theo dõi thường xuyên. Tài liệu 16: Ngày 21/2/1927, Huỳnh Thúc Kháng nhờ tân XLTV Khâm sứ Friès chuyển công điện cám ơn Pasquier về nghị định ra báo. Tài liệu 17: Ngày 18/3/1927, Huỳnh Thúc Kháng gửi thư cho XLTV Khâm sứ Friès, nhắc lại lời Friès tuyên bố là đã có trong tay nghị định cho phép ra báo Tiếng Dân, và sẽ thông báo cho HTK biết khi về tới Tourane. Yêu cầu Friès gửi Nghị định trên càng sớm càng tốt. (RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 18: Ngày 19/3/1927, Léonard Sogny, Chánh Sở Liêm Phóng An Nam, đệ trình kế hoạch kiểm soát tờ Tiếng Dân. 1. Một ban kiểm soát dưới quyền Bùi Văn Cung, công dân Pháp, thông dịch viên giao kèo của Sở Liêm Phóng; Đoàn Nẫm, thư ký tại đoàn đại biểu Pháp tại Bộ Lại; và Đặng Thái Vận, “nho” tại Sở Liêm Phóng. 2. Không được xúc phạm chủ quyền Pháp và chế độ thiết lập tại Annam. 3. Phải nạp hai bản vỗ cho Sở Liêm Phóng với bản dịch Pháp ngữ. Sau khi kiểm duyệt, một bản sẽ trả lại cho Chủ nhiệm báo, do đích thân Sogny ký, với con dấu. Nếu Sogny vắng mặt, cần chữ ký của Dussaut, cò đặc biệt. Sẽ có câu “Visa pour publication” [cho phép xuất bản]. 4. Báo ấn hành phải nạp hai bản: tại Kho lưu trữ [dépôt légal] tòa Khâm, và Kho lưu trữ cảnh sát [dépôt de police]. Sogny sẽ liên lạc trực tiếp với Huỳnh Thúc Kháng. (Tờ trình số 462, ngày 19/3/1927, RSA/HC, HS 1869) Tài liệu 19: Ngày 13/4/1927, Huỳnh Thúc Kháng thông báo cho Khâm sứ biết là sẽ rời chỗ cư trú ra Huế để xuất bản báo. Tài liệu 20: Ngày 5/8/1927, Khâm sứ thông báo cho Huỳnh Thúc Kháng biết mỗi số báo phải nạp 2 bản cho văn phòng Tòa Khâm. Hai ngày trước khi in, phải nộp cho Sở Liêm Phóng Huế hai bản vỗ với bản dịch đầy đủ qua Pháp ngữ. Tài liệu 21: Ngày 1/5/1928, Huỳnh Thúc Kháng báo cho Khâm sứ biết là sau khi thiết lắp lại nhà in, Tiếng Dân ra số 74 ngày 1/5/1928. Số báo này cùng sáu số kế tiếp, từ số 75 tới 80, chỉ có 2 tờ khổ nhỏ bằng nửa bình thường, vì máy in do hãng d’Alauzet sản xuất đang được tháo ra để thiết trí ở địa chỉ mới. (RSA/HC, HS 1869) II. TRƯỜNG HỢP NÀO TIẾNG DÂN RA ĐỜI? A. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ BÁO CHÍ VIỆT NAM (1861-1926): Kỹ nghệ báo chí và xuất bản nhập cảng vào Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Trước ngày Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, báo chí chưa hề hiện hữu tại vương quốc Đại Nam. Nghề in cũng còn thuộc tiểu công nghệ, tập trung tại kinh đô cùng Hà Nội và Sài Gòn (Phiên An). Tờ báo đầu tiên xuất hiện tại Đông Dương là tờ Le Bulletin Officiel d’Expédition de la Cochinchine [Thành tích biểu viễn chinh Nam Kỳ], bằng Pháp ngữ. Số 1 ra mắt ngày 29/9/1861. Tiếp đó là tờ Le Bulletin des Communes [Thành tích cộng đồng], bằng Hoa ngữ, số 1 ra năm 1862, rồi thêm tờ công báo bằng Pháp ngữ Le courrier de Saigon [Sài Gòn thời báo]. (Ngày 5/9/1865, báo này khởi đăng loạt bài "Notes historiques sur la nation annamite" [Những ghi chú về quốc gia an-nam- mit] của Théophile Le Grand de la Liraye, đưa ra “thuyết” người Giao Chỉ có hai ngón chân cái chạm vào nhau khi đứng thế nghiêm!) Mãi tới ngày 15/4/1865, tờ báo đầu tiên bằng chữ Việt mới—dựa theo chữ cái Latin và dấu xướng âm Portuguese—mới chào đời ở Sài Gòn, tức tờ Gia Định Báo. Tuần báo này phát không trong các làng mạc miền Nam để phổ biến chính sách của Pháp. Tháng 9/1869, Trương Vĩnh Ký (tức Petrus Key, 1837-1898) được cử làm Tổng tài (Chủ biên) cho tới năm 1872.(4) Tất cả bốn tờ trên đều là cơ quan ngôn luận của Soái phủ Sài Gòn, do Linh mục Thanh tra Bản xứ vụ [Inspecteur des affaires indigènes] Le Grand de la Liraye (tức cố Trường) điều khiển, với sự phụ tá của nhóm Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), Petrus Key, v.. v.. thuộc Ban thông ngôn Soái phủ. Gần cuối thập niên 1880, Petrus Key cũng ấn hành một tờ học báo, với tựa Miscellanées ou Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales, cantonales et les familles [Thông Loại Khóa Trình]. Báo ra hàng tháng, từ tháng 1/1888 tới tháng 10/1889; nhằm cung cấp bài dạy cách trí cho học sinh tiểu học và sơ học cấp tổng, cấp xã. (5) Theo tài liệu Pháp, tờ báo thứ hai bằng Việt ngữ là Nam Kỳ, do A. Schneider xuất bản ngày 21/10/1897. (Số báo 46, ra ngày 8/9/1898, có bài về Petrus Key cùng một chân dung với dầy đủ huy chương Pháp-Việt, kể cả Bắc đẩu Bội tinh) Tờ thứ ba là Phan Yên báo (Phan Yên là tiếng nói lái của Phiên An, tức Sài Gòn). Báo này vừa ra mắt thì phải đóng cửa ngay vì Nghị định ngày 30/12/1898. Điều 2 của Nghị định trên qui định rằng tất cả các báo không viết bằng Pháp ngữ phải đưa kiểm duyệt trước khi phát hành.(6) Riêng báo tư nhân bằng Pháp ngữ phát triển khá mạnh ở Nam kỳ và rồi Bắc kỳ vào cuối thế kỷ XIX. Đáng kể nhất là tờ Le Cochichinois (1888-1893), Le Courrier de Saigon (1889-1900)/Le Mékong (1893-1901) của một nhóm tả phái ở Sài Gòn, với lập trường chống Hội truyền giáo. Báo có số phát hành cao nhất ở miền Bắc là L’Avenir du Tonkin [Tương lai Bắc kỳ] (1884-1940), do Hội truyền giáo chi phối (chuyển qua nhật báo năm 1901) và L’Indépendance tonkinois [Nền độc lập của Bắc Kỳ] (1889-1940). Năm 1892, tờ Le Courrier d’Haiphong [Hải Phòng Thời Báo] (1890-1940; chuyển qua nhật báo năm 1908; BNF, Jo 5912) từng gây náo động triều Huế qua bài viết về âm mưu của Diệp Văn Cương đưa Thành Thái (1889-1907) lên ngôi năm 1889. L’Avenir du Tonkin cũng gây nên những cuộc bút chiến với Camille Pâris hay Ulysse Leriche, người đỡ đầu Nguyễn Ái Quốc vào nghề báo trên tờ L’Humanité trong thời khoảng 1919-1923. Năm 1907, L’Avenir du Tonkin còn lên án các viên chức “Tam Điểm” Pháp “truy diệt tôn giáo” qua việc truất phế vua Thành Thái—người có tin đã được một thày kẻ giảng bỏ tu bí mật rửa tội trước khi lên ngôi, hoặc khi đang ở ngôi. Đầu thế kỷ XX, mới xuất hiện một số báo tiếng Việt hoặc song ngữ (Hán-Việt) trong một thời gian ngắn. Tại Hà Nội, có Nông Cổ Mín Đàm (1904), Đại Nam Đăng cổ tùng báo (1907), và Đại Việt Tân báo (1905-1908). Tại Sài Gòn có Lục tỉnh tân văn (1907, 1910). Sự chậm phát triển này có nhiều lý do. Số độc giả chữ Việt mới còn rất giới hạn. Cho tới năm 1908, khắp ba kỳ mới có 167 người (kể cả Nguyễn Sinh Côn) đậu bằng tiểu học Pháp-Nam. Ngoài ra, luật báo chí ngày 30/12/1898 rất khe khắt. Nhân vật lừng lẫy nhất trong giới văn bút thời gian này là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Tốt nghiệp trường thông ngôn Hà Nội năm 1896, Nguyễn Văn Vĩnh làm thư ký cho Tòa Thống sứ tới năm 1907 mới đổi qua nghề báo. Ngoài tờ Đại Nam Đăng cổ tùng báo (1907), ông còn chủ trương tờ Notre Journal (1908) và Notre Revue [Tạp chí của chúng ta] (1910) tại Hà Nội, rồi hợp tác với tờ Lục tỉnh tân văn (1910) ở miền Nam. Năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút nhật báo Đông Dương tạp chí. Hai năm sau, kiêm chủ bút Trung Bắc Tân Văn [Tin tức Trung và Bắc Kỳ] (15/5/1915-1918), phụ bản hàng tuần của Đông Dương tạp chí. Francois Schneider là chủ nhiệm.(7) Gần cuối Thế chiến thứ nhất (1914-1918), làm báo trở thành một nghề. Miền Nam có tờ La tribune indigène [Diễn đàn bản xứ] (1917-1919), và miền Bắc có Trung Bắc Tân Văn cùng Nam Phong. Cả ba tờ báo trên đều được sự trợ giúp, cách này hay cách khác, của chính quyền Bảo hộ Pháp. La tribune indigène do Charles Nguyễn Phú Khai (1887-?) cùng nhóm trí thức Tây học ấn hành. Nguyệt san Nam Phong, xuất bản số đầu tiên ngày 1/7/1917(BNF, MICR D-998), là tiếng nói bán chính thức của cơ quan an ninh Pháp, do Louis Marty thuộc Tổng Nha Thanh tra Chính trị, cơ quan tiền thân của Nha Liêm Phóng (Mật Thám, hay Sureté) Pháp, làm Chủ nhiệm. Ban biên tập do hai người Việt phụ trách: Phạm Quỳnh (1892- 1945) lo phần quốc ngữ mới, trong khi Cử nhân Nguyễn Bá Trác (?-1945), một cựu du học sinh Đông Độ, gốc Quảng Nam, phụ trách phần chữ Nho [Hán].(8) Từ năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh trở thành chủ nhiệm nhật báo Trung Bắc Tân Văn, đồng thời ra tờ Học Báo.(9) Thập niên 1920 chứng kiến sự phát triển mạnh của báo chí và ngành xuất bản tại Nam và Bắc Kỳ. Tại Nam kỳ, gây chú ý nhất là các tờ Le Courrier indochinois [Đông Pháp Thời Báo] (1923-1928) của Nguyễn Kim Đính (sau bán cho Diệp Văn Kỳ, con Diệp Văn Cương); Trung Lập (16/1/1924-30/5/1933) (BNF, Jo 93899), và Sài Thành nhựt báo của Trương Duy Toản (1885-1907), tức Mạnh Tự ; La tribune indochinoise [Diễn đàn Đông Dương] (6/8/1926-1942), cơ quan ngôn luận của Đảng Lập Hiến, do Bùi Quang Chiêu (1873-1945) làm Chủ nhiệm, và L’Echo annamite [Tiếng vọng An Nam hay Dư Luận] của Nguyễn Phan Long (1889- 1960).(10) Ngoài ra, còn tờ Lục tỉnh tân văn (1927-30/9/1944) của nhóm Nguyễn Văn Của-Lê Quang Liêm (1881-1945) tự “Phủ” Bảy.(11) L’Echo annamite, L’Impartial, Trung Lập và Lục tỉnh tân văn giữ bề ngoài trung lập. Riêng bán tuần báo La Cloche fêlée [Chuông rạn] bằng Pháp ngữ đứng hẳn về phe đối lập, đòi hỏi dân chủ và dân quyền cho người Việt. La Cloche Fêlée do Nguyễn An Ninh (1900-1943), Cử nhân Luật năm 1921, xuất bản tại Sài Gòn từ ngày 10/12/1923 tới 14/7/1924 thì tự ý đình bản. Ngày 26/11/1925, báo tục bản với Luật sư Phan Văn Trường (1878-1933) làm Giám đốc chính trị. Theo E. Dejean de la Bâtie, Luật sư Trường là "một người An-Nam toàn vẹn (un annamite complet)." Cũng ngày này, Phan Văn Trường cùng Nguyễn An Ninh và Bâtie yêu cầu hủy bỏ lễ đón tiếp Toàn quyền Alexandre Varenne (1925-1927) và đưa kiến nghị (Cahier des Voeux Annamites) để phản đối việc Phan Bội Châu bị kết án chung thân khổ sai ba ngày trước.(12) Nhóm La Cloche Fêlée luôn đòi hỏi cải cách xã hội, luật pháp và giáo dục, hủy bỏ chế độ quân chủ, thay bằng chế độ Cộng hòa. Báo cũng đăng tải nhiều khảo luận về các biến cố lịch sử, như cuộc du hành của vua Duy Tân năm 1916, v.. v... Thái độ của viên chức thuộc địa với nhóm La Cloche Fêlée khác hẳn với nhóm Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Bài, Bùi Quang Chiêu, hay Nguyễn Phan Long v..v... Mặc dù có phần vị nể Phan Văn Trường, Thống đốc Maurice Cognacq (1922-1926) bí mật yêu cầu Varenne ngăn chặn những hành vi “phỉ báng các viên chức thuộc địa Pháp cùng giới quan lại Việt” (Như hô hào dân chúng đừng đón tiếp Varenne, gọi Bảo Đại là le roi bé con, hay Khâm sứ Pasquier là thằng). Sau khi Nguyễn An Ninh bị câu lưu ngày 24/3/1926 [kết án 18 tháng tù, nhưng ngày 7/1/1927 được đặc xá], báo đổi tên thành L’Annam. Ra được hơn một năm (6/5/1926 tới 25/7/1927), lại phải đóng cửa vì Luật sư Trường bị bắt ngày 21/7/1927 và truy tố ra tòa. Ngày 12/1/1928, L'Annam tục bản được ít số, rồi đình bản vĩnh viễn từ ngày 2/2/1928.(13) Tại Bắc kỳ, ngoài hai tờ Trung Bắc Tân Văn và Nam Phong, còn có thêm một số báo tư nhân như Thực nghiệp Dân báo (1920-1933), Hữu Thanh (1922-1924) (BNF, MICR D-982), An Nam Tạp chí, v.. v... (14) Năm 1924, Tiến sĩ Ngô Đức Kế (1878-1929) từng mượn tờ Hữu Thanh để đả kích “con đĩ” Thúy Kiều trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh [Tiếng kêu đứt ruột mới], hay Truyện Kiều, mà Phạm Quỳnh ca ngợi như “quốc hồn, quốc túy.” Riêng miền Trung, cho tới năm 1926, vẫn chưa có một tờ báo nào. Hai tờ báo được đọc nhiều nhất từ Bình Định trở ra là Trung Bắc Tân Văn và Nam Phong. Chính trong khoảng trống báo chí này của miền Trung, Huỳnh Thúc Kháng và những người ủng hộ đã khai sinh Tiếng Dân. [B]B. TRƯỜNG HỢP TIẾNG DÂN: Việc xin xuất bản Tiếng Dân khởi đầu từ tháng 10/1926, sau khi Tiến sĩ Kháng đắc cử vào Viện Dân Biểu An Nam [trung Kỳ] và đ
Tài liệu liên quan