Tóm tắt
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại, nhiều định hướng, chính sách của Nhà nước đã tạo điều
kiện để các hiện tượng/thực hành văn hóa được phục hồi, bảo tồn, nâng cấp và phát triển. Thực tiễn
này nằm trong xu hướng “di sản hóa”, nghĩa là các thực hành văn hóa được trao tặng thêm danh hiệu
di sản các cấp, như một cách tôn vinh, “định vị thương hiệu”, từ đó, một loạt các biện pháp bảo tồn và
phát huy được tiến hành nhằm nâng cấp hay mở rộng quy mô của các hiện tượng/thực hành văn hóa.
Thông qua nghiên cứu trường hợp đền Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trước và sau khi
được vinh danh di sản Quốc gia đặc biệt, nội dung bài viết nhằm diễn giải các vấn đề liên quan đến quá
trình di sản hóa, vai trò của nhà nước và cộng đồng trong quá trình di sản hóa.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự tham gia của nhà nước và cộng đồng trong quá trình di sản hóa đền Hát Môn (TP. Hà Nội), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13Số 24 - Tháng 6 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
SỰ THAM GIA CỦA NHÀ NƯỚC VÀ CỘNG ĐỒNG
TRONG QUÁ TRÌNH DI SẢN HÓA ĐỀN HÁT MÔN (TP. HÀ NỘI)
TRẦN THỊ LAN
Tóm tắt
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại, nhiều định hướng, chính sách của Nhà nước đã tạo điều
kiện để các hiện tượng/thực hành văn hóa được phục hồi, bảo tồn, nâng cấp và phát triển. Thực tiễn
này nằm trong xu hướng “di sản hóa”, nghĩa là các thực hành văn hóa được trao tặng thêm danh hiệu
di sản các cấp, như một cách tôn vinh, “định vị thương hiệu”, từ đó, một loạt các biện pháp bảo tồn và
phát huy được tiến hành nhằm nâng cấp hay mở rộng quy mô của các hiện tượng/thực hành văn hóa.
Thông qua nghiên cứu trường hợp đền Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội trước và sau khi
được vinh danh di sản Quốc gia đặc biệt, nội dung bài viết nhằm diễn giải các vấn đề liên quan đến quá
trình di sản hóa, vai trò của nhà nước và cộng đồng trong quá trình di sản hóa.
Từ khóa: Di sản văn hóa, di sản hóa, đền Hát Môn, danh hiệu di sản
Abstract
In the context of contemporary Vietnamese society, many policies and orientations of the State and
Party have created conditions for cultural phenomena/activity to be restored, preserved, improved and
developed. This reality is in the trend of “heritage labelling”, it means cultural activities are awarded the
title of heritage at all levels, as a way of honoring and “brand positioning”, then a series of Conservation
and promotion measures are implemented to improve or expand the scale of cultural phenomena /
activities. Through the case study of Hat Mon Temple, Phuc Tho District, Hanoi before and after being
awarded the special national heritage, the article aims to explain issues related to the process of
heritage labelling, the role of the state and community in the process of heritage labelling.
Keywords: Cultural heritage, heritage labelling, Hat Mon Temple, heritage title
Trong bối cảnh xã hội đương đại, vai trò của di sản văn hóa ngày càng được đề cao, như là một nguồn nội
lực quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, từ sau đổi
mới đến nay, công tác bảo vệ, phát huy giá trị
di sản văn hóa nhận được nhiều sự quan tâm
của Nhà nước và cộng đồng. Việc nghiên cứu,
kiểm kê và lựa chọn xếp hạng các di sản văn
hóa được tiến hành liên tục, bền bỉ trong suốt
nhiều thập kỷ, hàng nghìn di tích, thực hành
văn hóa đã được xếp hạng là di sản văn hóa. Di
tích đền Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội cũng nằm trong số đó, được Nhà nước
xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia năm 1964 và
Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt năm 2013. Lễ
hội đền Hát Môn được xếp hạng Di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia năm 2016.
Quá trình vinh danh di sản đền Hát Môn và
các di sản văn hóa khác ở Việt Nam nằm trong
xu hướng di sản hóa của thế giới. Tìm hiểu sự
tham gia của Nhà nước và cộng đồng trong
quá trình di sản hóa đền Hát Môn sẽ góp phần
luận giải những phương diện về mặt lý luận và
thực tiễn về bức tranh di sản hóa ở Việt Nam
trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại.
DI SẢN VĂN HÓA
Số 24 - Tháng 6 - 201814
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Di sản hóa
Di sản hóa (heritagization - tiếng Anh/
patrimonalization - tiếng Pháp) là một khái
niệm ngày càng phổ biến trong các nghiên cứu
về di sản văn hóa. Nguồn gốc của khái niệm
này có thể được tìm thấy trong các nghiên cứu
của các nhà sử học, nhà nhân học và nhà địa lý
Âu - Mỹ vào đầu những năm 1990. Khái niệm
di sản hóa có thể được hiểu là quá trình lựa chọn
và đưa các yếu tố của một nền văn hóa (tòa nhà,
di tích, di chỉ, khu vườn, phong cảnh, đối tượng,
thực hành, nghi lễ, và truyền thống) trở thành
di sản văn hóa. Đây là một quá trình với các giai
đoạn kế tiếp nhau: giai đoạn lựa chọn các yếu tố
để xây dựng thành di sản văn hóa, mà kết quả
của giai đoạn này là yếu tố văn hóa đó được vinh
danh, có được “danh hiệu” bởi các tổ chức bên
ngoài cộng đồng di sản (Nhà nước, quốc tế), di
sản văn hóa được bảo vệ bởi luật pháp quốc gia
và các hiệp định quốc tế, các công ước và điều lệ;
Tiếp theo là giai đoạn hậu vinh danh di sản văn
hóa, hành trình mới của nó với tư cách là một di
sản văn hóa có danh hiệu. Di sản hóa là quá trình
dẫn đến sự biến đổi của bản thân di sản văn hóa,
thể hiện mối quan hệ đa chiều của các bên liên
quan (nhà nước, cộng đồng, doanh nghiệp),
với các mục đích, vai trò khác nhau trong quá
trình vinh danh và hậu vinh danh di sản văn hóa.
Theo Oscar Salemink, di sản hóa là một xu
hướng lịch sử có tính toàn cầu, hiểu theo nghĩa
đơn giản nhất là “gắn cho các di tích và thực
hành văn hóa danh hiệu di sản” (4, tr.494). Bàn
về sự tham gia của Nhà nước và cộng đồng
trong quá trình di sản hóa, Oscar Salemink cho
rằng: sau khi được công nhận là di sản văn hóa,
Nhà nước có sự can thiệp ngày càng sâu vào
các thực hành văn hóa, dẫn đến nguy cơ cộng
đồng bị “ngoài lề hóa” với chính thực hành văn
hóa vốn trong quá khứ là của họ. Mặt khác, theo
Oscar, di sản hóa không phải là “con đường một
chiều. Nhiều cộng đồng và địa phương sẵn
sàng tham gia vào quá trình đòi hỏi sự công
nhận văn hóa để theo đuổi mục đích riêng của
họ” (3, tr.173-174). Quan điểm về di sản hóa của
Oscar Salemink được sử dụng là cơ sở lý luận
để soi chiếu vào thực tiễn sự tham gia của nhà
nước và cộng đồng trong quá trình di sản hóa
đền Hát Môn - một ngôi đền có dấu ấn quan
trọng trong lịch sử dân tộc, được Nhà nước lựa
chọn vinh danh di tích quốc gia (1964), di tích
quốc gia đặc biệt (2013), lễ hội đền Hát Môn là
di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (2016).
2. Nhà nước và cộng đồng trong quá trình
vinh danh di sản đền Hát Môn
Đền Hát Môn thuộc xã Hát Môn, huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Đền gồm có các
công trình kiến trúc chính như: quán Tiên, miếu
Tạm ngự, nghi môn, nhà phương đình, đàn
Thề, tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung,
tả hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm bà
Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ Trong
đền còn nhiều cổ vật có giá trị lịch sử và mang
đậm phong cách nghệ thuật chạm khắc thời Lê
- Nguyễn. Đây cũng cũng là một ngôi đền đặc
biệt với 3 lễ hội lớn được tổ chức trong cùng
một năm: Lễ hội ngày 6 tháng 3 (kỷ niệm ngày
Hai Bà hóa); Lễ hội ngày 4 tháng 9 (kỷ niệm
ngày Hai Bà tế cờ khao quân); Lễ Mộc dục ngày
24 tháng Chạp (6).
Đền Hát Môn gắn với hình tượng Hai Bà
Trưng có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử phát triển
của quốc gia - dân tộc và trong đời sống văn
hóa của cộng động địa phương. Trong lịch sử
Việt Nam, Hai Bà Trưng là hình tượng nổi bật,
gắn với quá trình đấu tranh giành độc lập, đó
là “hai người phụ nữ đầu tiên của lịch sử đã đứng
lên giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, quy
tụ sức mạnh và tình cảm của toàn khối cộng
đồng, lập nên kỳ tích vĩ đại, đưa con người Việt
Nam bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập,
tự do sau hơn 200 năm mất nước - kể từ thời An
Dương Vương” (5, tr.179). Xuyên suốt trong các
sách chính sử của Việt Nam, các nhà Nho mặc
dù ảnh hưởng của tư tưởng “trọng nam khinh
nữ” nhưng đều dành những trang mô tả, ca
ngợi công lao của Hai Bà Trưng.
Trong bối cảnh hiện đại, Hai Bà Trưng vẫn
tiếp tục trở thành hình tượng để giáo dục
truyền thống yêu nước nói chung, cổ vũ các
phong trào của phụ nữ Việt Nam nói riêng.
Hình tượng Hai Bà Trưng đã góp phần tạo nên
bản sắc của dân tộc, là niềm tự hào của dân tộc
Việt Nam. Tổng thống Donald Trump gợi nhắc
tinh thần Hai Bà Trưng trong bài phát biểu tại
15Số 24 - Tháng 6 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
APEC 2017: “trong khoảng năm thứ 40 sau Công
nguyên, hai chị em người Việt Nam là Hai Bà
Trưng đã đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm,
thức tỉnh tinh thần độc lập. Đó là lần đầu tiên
trong lịch sử mà người dân Việt Nam đứng lên
vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình”.
Trước đó, tháng 5/2016 tại Trung tâm Hội nghị
Quốc gia, cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama
cũng đã đề cập đến hình tượng Hai Bà Trưng
để ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người
phụ nữ Việt Nam.
Đối với cư dân làng Hát Môn, đền Hát Môn
là chỗ dựa tinh thần và cũng là để quy tụ
cộng đồng, xây dựng khối đại đoàn kết trong
làng, giáo dục truyền thống “uống nước - nhớ
nguồn” cho mỗi thành viên trong cộng đồng.
Hai Bà được nhân dân tôn thờ như những vị
thánh, luôn che chở, bảo vệ cho cuộc sống
của dân làng. Nhiều kiêng kị đã được duy trì từ
thế hệ này sang thế hệ khác trở thành những
điều bất di bất dịch trong đời sống cộng đồng:
kiêng nhắc tên húy của Hai Bà mà phải phát âm
chệch đi (âm Trắc phát âm là Chức; âm Nhị phát
âm là Nhợi); kỵ không được dùng màu đỏ trong
toàn bộ đồ thờ. Nếu đang làm cụ từ, tiên chỉ,
thứ chỉ, chủ văn của đền mà có tang thì phải
lễ tạ xin nghỉ và kiêng ít nhất 1 tuần mới được
lên đền Chính niềm tin về mặt tâm linh ấy đã
góp phần gắn bó con người trong tổ chức làng
xã, góp phần tạo nên sự cộng mệnh và cộng
cảm của sức mạnh cộng đồng.
Từ đầu năm 2013, thành phố Hà Nội đưa ra
đề án về việc xây dựng huyện Phúc Thọ đến
năm 2030, trong đó có định hướng phát triển
du lịch văn hóa và tâm linh, xây dựng trung tâm
văn hóa, lễ hội khu vực đền thờ Hai Bà Trưng, xã
Hát Môn. Từ định hướng này, đền Hát Môn nằm
trong kế hoạch của thành phố về việc đề nghị
làm hồ sơ vinh danh trở thành di tích Quốc gia
đặc biệt. Để thực hiện kế hoạch này, Ban Quản
lý di tích và Danh thắng thuộc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Hà Nội đã tiến hành các bước
lập hồ sơ khoa học về đền Hát Môn. Một số tài
liệu do Ban sưu tầm lịch sử văn hóa đền thờ Hai
Bà Trưng và các di sản văn hóa khác trong làng
sưu tầm và ghi chép từ năm 2011 được sử dụng
là nguồn tham khảo quan trọng để làm hồ sơ
di tích.
Hồ sơ di tích đền Hát Môn được xây dựng
theo loại hình di tích lịch sử, văn hóa gắn với
anh hùng dân tộc, phù hợp với khoản a, điều
29, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
di sản văn hóa năm 20091. Vì thế, trong lý lịch di
tích đền Hát Môn, dài 53 trang, do Ban Quản lý
di tích và Danh thắng Hà Nội xây dựng chủ yếu
nhấn mạnh về sự nghiệp chống ngoại xâm hào
hùng của Hai Bà Trưng. Mặt khác, trong hồ sơ,
đền Hát Môn cũng được cân nhắc lựa chọn về
các giá trị tiêu biểu: Thứ nhất, nhấn mạnh giá trị
lịch sử của nhân vật được thờ là Hai Bà Trưng;
Thứ hai, giá trị kiến trúc nghệ thuật của đền Hát
Môn; Thứ ba, giá trị văn hóa, khoa học được tạo
nên bởi lễ hội đền Hát Môn, tục làm bánh trôi
cúng và nghi thức mộc dục.
Sau khi hoàn thiện hồ sơ, ngày 23-5-2013,
tại nhà khách đền Hát Môn đã diễn ra một hội
nghị thông qua hồ sơ xếp hạng di tích cấp
quốc gia đặc biệt đền Hai Bà Trưng, xã Hát
Môn, huyện Phúc Thọ với sự tham gia của đại
diện Ban Quản lý di tích và danh thắng, chính
quyền, một số nhà khoa học và Ban Bảo vệ di
tích đền Hát Môn để thống nhất các nội dung
liên quan đến hồ sơ khoa học của đền. Đến
tháng 5/2013, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Hà Nội đã lập xong hồ sơ khoa học và hồ sơ
pháp lý trình Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
trình Thủ tướng Chính phủ xem xét xếp hạng
đền Hát Môn là di tích quốc gia đặc biệt. Sau
khi hoàn thiện xong hồ sơ, ngày 26/6/2013, Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội có Công
văn số 1918/VHTTDL-QLDT về việc đề nghị xếp
hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt cho 5 di tích
thuộc địa bàn thành phố Hà Nội, trong đó có di
tích đền Hát Môn, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ.
Ngày 11/7/2013, Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội có Công văn số 5018/UBND-VX về
việc đề nghị xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc
biệt 5 di tích, trong đó có đền Hát Môn. Tiếp
đó, ngày 9/12/2013, Thủ tướng Chính phủ ký
Quyết định số 2383/QĐ-TTg, xếp hạng di tích
Quốc gia đặc biệt 14 di tích, trong đó có di tích
đền Hát Môn.
Quá trình lựa chọn và làm hồ sơ vinh danh
đền Hát Môn là di tích quốc gia đặc biệt diễn
ra trong khoảng thời gian 1 năm, bao gồm
Số 24 - Tháng 6 - 201816
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
các bước kiểm kê, sưu tầm, nghiên cứu, đánh
giá giá trị của di tích và hoàn thiện hồ sơ trình
Thủ tướng Chính phủ ra quyết định công
nhận. Thành công của toàn bộ quá trình làm
hồ sơ vinh danh di sản chủ yếu là do sự “biết
việc”, “có kinh nghiệm làm hồ sơ” của các cán
bộ, sự đóng góp của các chuyên gia nghiên
cứu và các nhà khoa học. Về cơ bản, đóng góp
của cộng đồng địa phương có di tích là không
nhiều, bởi theo quan điểm của chính quyền địa
phương và các thành viên trong Ban Bảo vệ di
tích thì để “người biết việc” làm sẽ nhanh hơn,
đúng tiêu chí hơn (Phỏng vấn tại xã Hát Môn,
tháng 4/2018).
Mặc dù không có nhiều đóng góp trong
quá trình làm hồ sơ, nhưng cộng đồng địa
phương đều mong muốn đền Hát Môn được
công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt. Di tích
đền Hai Bà ở Hát Môn từ trước tới nay vẫn luôn
nằm trong thế so sánh, đối chiếu với di tích đền
Hai Bà Trưng ở huyện Mê Linh (Hà Nội). Đối với
cộng đồng, đền Hát Môn mới là “di tích gốc”,
“di tích cổ nhất” trong hệ thống di tích thờ Hai
Bà Trưng, gắn liền với các sự kiện quan trọng
nhất trong cuộc đời của Hai Bà. Trong khi ngôi
đền Hai Bà Trưng ở Mê Linh nhận được nhiều
sự quan tâm, đầu tư của chính quyền, đặc biệt
là sự hỗ trợ của Trung ương Hội Phụ nữ Việt
Nam, thì đền Hát Môn vẫn là một ngôi đền
nhỏ, ít người biết đến. Trung ương Hội đã từng
phát động một cuộc vận động phụ nữ trong
cả nước quyên góp, ủng hộ xây dựng đền Hai
Bà Trưng ở Mê Linh. Theo tìm hiểu của tác giả,
trong khi đền Hát Môn không được đầu tư,
xây dựng nhưng phụ nữ Hát Môn, mỗi người
cũng phải đóng góp 2.000 đồng (thời điểm
năm 1995) để xây dựng đền Hai Bà Trưng ở Mê
Linh. Điều này, ít nhiều đã tác động đến tâm lý,
tình cảm, đến sĩ diện của người dân Hát Môn,
họ cảm thấy di tích của địa phương “bị bỏ rơi”,
“không được coi trọng” (Phỏng vấn tại xã Hát
Môn tháng 4/2018). Chính vì thế, cộng đồng
địa phương đều mong muốn di tích của họ
được vinh danh, nó trở thành niềm tự hào/vinh
dự của cộng đồng đối với chính truyền thống
văn hóa của họ. Đó là thể diện của cộng đồng
trong thế đối chiếu, so sánh với các cộng đồng
khác, cụ thể ở đây là cộng đồng cư dân xã Mê
Linh. Từ thực tiễn này cho thấy không chỉ riêng
Nhà nước mà cộng đồng cũng có những mục
đích khác trong quá trình di sản hóa đền Hát
Môn, xem việc vinh danh di sản là phương tiện
mà thông qua đó, họ tìm thấy được sự công
bằng cho ngôi đền thờ Hai Bà Trưng của địa
phương mình.
3. Nhà nước, cộng đồng và di tích đền Hát
Môn sau khi được vinh danh
Theo khái niệm di sản hóa đã trình bày
ở trên, quá trình di sản hóa bao gồm hai giai
đoạn: vinh danh và hậu vinh danh. Sau khi
được lựa chọn, vinh danh, đền Hát Môn đang
bước trên một hành trình mới với tư cách là
một di sản “có danh hiệu” - di tích quốc gia đặc
biệt của đất nước. Hành trình này đã dẫn tới
nhiều sự biến đổi trong mối quan hệ giữa cộng
đồng, nhà nước và di sản văn hóa.
Trong nghiên cứu của Oscar Salemink về
quá trình di sản hóa có một luận điểm được
phân tích rõ là sự can thiệp của nhà nước vào
di sản văn hóa của cộng đồng sau khi được
vinh danh. Oscar cho rằng, với các di sản văn
hóa được UNESCO công nhận thì “những người
dân địa phương không còn toàn quyền kiểm
soát thực hành văn hóa mà trong quá khứ họ
tự mình tổ chức và quản lý. Thay vào đó, chính
quyền địa phương và quốc gia, cán bộ UNESCO,
chuyên gia văn hóa, những người phát triển du
lịch và công chúng rộng hơn từ bên ngoài trở
thành “bên liên quan” trong quá trình đánh giá,
định giá và bình ổn” (4). Di sản văn hóa sau khi
vinh danh bị nhà nước can thiệp, thực hành
văn hóa bị tách ra khỏi cộng đồng.
Đối với trường hợp đền Hát Môn, dưới các
triều đại phong kiến, việc quản lý đền Hát Môn
do làng phụ trách, được ghi rõ trong hương ước
của làng. Các giáp của làng (gồm 5 giáp: Đông
Hạ, Đông Thượng, Nam Hạ, Nam Thượng, giáp
Trung) được phân chia rõ trách nhiệm trong
việc trông nom, bảo vệ ngôi đền: giáp Đông Hạ
phụ trách hậu cung, thiêu hương; giáp Đông
Thượng phụ trách đại bái; giáp Nam Hạ phụ
trách hữu mạc; giáp Nam Thượng phụ trách
tam quan. Mỗi giáp được chia 1 sào ruộng ở
trước cửa đền và giao cho ông giáp trưởng cày
cấy, lấy hoa lợi chi lễ mồng một, rằm và các lễ
tiết khác (1).
17Số 24 - Tháng 6 - 2018
DI SẢN VĂN HÓA
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Từ sau ngày hòa bình lập lại, một số thể lệ, tổ
chức được thay đổi, các giáp không còn tồn tại,
việc quản lý di tích lịch sử đền Hát Môn được
giao cho Ủy ban hành chính xã. Năm 1968, lãnh
đạo địa phương thành lập Ban bảo vệ di tích
đền Hát Môn với 16 cụ ông tự nguyện tham gia
bảo vệ di tích. Trong giai đoạn này, vào ngày
sinh, ngày hóa hàng năm của Hai Bà chỉ có lễ
của dân làng và dâng hương lên Hai Bà, không
tổ chức các nghi thức rước lễ và tế thánh linh
đình. Những giản thiểu nói trên của đời sống
lễ nghi cộng đồng của dân làng Hát Môn nằm
trong bối cảnh chung, một phần nhỏ là do kinh
tế còn nhiều khó khăn, nhất là trong thời kỳ
chiến tranh chống chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ, nhưng lý do chính yếu là “về mặt ý
thức hệ, Nhà nước xem sinh hoạt lễ nghi là duy
tâm, không phù hợp với hiện đại và khoa học.
Nhà nước cũng xem những sinh hoạt này là sự
phung phí tài vật có thể được sử dụng hữu hiệu
hơn để xây dựng và phát triển cũng như để hỗ
trợ cho chiến tranh” (2).
Trước Đổi mới (1986), việc quản lý của
chính quyền địa phương đối với đền Hát Môn
chỉ mang tính hình thức. Việc cúng bái, tế lễ do
các cụ trong Ban Bảo vệ di tích đứng ra lo liệu.
Chính quyền xã Hát Môn có cử 1 cán bộ là Phó
Chủ tịch phụ trách văn hóa, xã hội tham gia vào
việc quản lý đền nhưng trong bối cảnh chung
của những năm đầu thập niên 80, các sinh hoạt
lễ hội, tôn giáo, tín ngưỡng vẫn bị quy là mê tín
dị đoan nên hầu như chính quyền địa phương
đều bỏ mặc cho dân tự làm. Trong những năm
1990, những người là cán bộ, đảng viên “lên
đền” còn bị nghi ngờ về phẩm chất tư cách, đạo
đức của người đảng viên Đảng Cộng sản nên
đền Hát Môn trong thực tế vẫn là do dân làng
tự quản lý.
Đến năm 1991, để thống nhất sự quản lý về
mặt nhà nước đối với các di tích, lịch sử trên địa
bàn xã, thực hiện sự chỉ đạo của chính quyền
cấp huyện, Ban quản lý di tích lịch sử, văn hóa
xã Hát Môn được thành lập do ông Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã làm Trưởng ban, quản lý
tất cả các di tích trên địa bàn xã. Ban Bảo vệ di
tích đền Hát Môn trực thuộc Ban quản lý di tích
lịch sử, văn hóa xã. Mọi công việc bảo vệ, giữ
gìn di tích cũng như quy trình tổ chức lễ hội
hàng năm ở đền Hát Môn là do các thành viên
trong Ban bảo vệ lên kế hoạch, chủ động các
nội dung tế lễ. Chính quyền xã chỉ thực hiện
chức năng chỉ đạo chung, hướng dẫn tổ chức
theo đúng tinh thần chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Trong nhiều năm liên tục, đền Hát
Môn không có sự tham gia chỉ đạo trực tiếp của
huyện mà chính quyền huyện chỉ tham gia với
tư cách là khách mời trong lễ hội.
Từ thời điểm năm 2014, khi đền Hát Môn
được vinh danh là di tích Quốc gia đặc biệt,
theo quy định trong Luật Di sản văn hóa,
đền trực thuộc sự quản lý của Ủy ban nhân
dân huyện Phúc Thọ. Lễ hội đền Hát Môn do
huyện đứng ra tổ chức, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện làm Trưởng ban tổ chức lễ hội, chỉ
đạo bằng các kế hoạch, văn bản. Từ lễ hội 6/3
năm 2014 đến nay, mỗi lễ hội đều có đông đảo
lực lượng công an, quân đội thường trực của
huyện tham gia, với số lượng từ 70-100 người.
Chủ đề của lễ hội đền Hát Môn 2018 được
chính quyền huyện thống nhất là “Phát huy
tinh thần độc lập, tự cường của cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, Đảng bộ và nhân dân
huyện Phúc Thọ quyết tâm xây dựng quê
hương giàu đẹp, văn minh”, được in thành các
tấm pa-nô, áp phích treo trong khuôn viên lễ
hội. Ngoài ra, ở sân khấu dựng tạm bên ngoài
sân đàn thề còn có thêm các câu khẩu hiệu
“Đảng bộ và nhân dân huyện Phúc Thọ quyết
tâ