Tác hại của vi sinh vật

Vi sinh vât được đưa vào kho cùng lúc với sự cất giữ nông sản, vì chúng thường xuyên có mặt trong không khí. Vi sinh vật phân bố trên bề mặt thực vật được gọi là vi sinh vật biểu sinh. Chúng phát triển chủ yếu dựa vào các sản phẩm bài tiết cuả cây và các chất bụi bám trên cây. Do môi trường nghèo dinh dưỡng và các điều kiện sống khác không thích hợp nên quần thể vi sinh vật biểu sinh có thành phần và số lượng kém phong phú như trong vùng rễ. Vi sinh vật biểu sinh trên hạt phần lớn là các loài hoaị sinh chúng có thể bám vào bất cứ phần nào trên vỏ hạt, hoặc nằm giữa vỏ trấu và vỏ gạo. Một số loài vi sinh vật biểu sinh có thể quan sát được bằng mắt thường, một số loài khác chỉ có thể quan sát được bằng kính hiển vi, bằng cách cấy lên môi trường nhân tạo. Nhiều công trình còn cho thấy trong thời gian nông sản còn trên cây đang phát triển, có nhiều loài vi sinh vật biểu sinh nhưng không gây hại. Tuy nhiên khi thu hoạch nông sản được đưa vào kho, ở đây chúng tiết ra nhiệt trong quá trình sống và hô hấp làm cho đống hạt nóng lên , tạo điều kiện cho nhiều loài vi sinh vật khác phát triển và thúc đẩy các qua trình sinh hoá trong hạt hoạt động mạnh .

doc45 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7041 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tác hại của vi sinh vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I TÁC HẠI CỦA VI SINH VẬT : 1/Tác hại của vi sinh vật trên nông sản Trong quá trình bảo quản nông sản, vi sinh vật giữ vai trò quan trọng vì khi chúng sống và phát triển được trên nông sản thì chúng phân hủy chất hữu cơ nên làm giảm giá trị nông sản. Vi sinh vật phát triển trong hạt sẽ làm giảm trọng luợng khô, giảm hoặc mất hoàn toàn khả năng nảy mầm. Trong hạt, vi sinh vật sẽ phân hủy các chất hữu cơ để tạo các loại rượu, acid hữu cơ và các sản phẩm phân hủy khác làm cho hạt có vị đắng và mùi khó chịu. 1.1Nguồn gốc vi sinh vật trong nông sản : Vi sinh vât được đưa vào kho cùng lúc với sự cất giữ nông sản, vì chúng thường xuyên có mặt trong không khí. Vi sinh vật phân bố trên bề mặt thực vật được gọi là vi sinh vật biểu sinh. Chúng phát triển chủ yếu dựa vào các sản phẩm bài tiết cuả cây và các chất bụi bám trên cây. Do môi trường nghèo dinh dưỡng và các điều kiện sống khác không thích hợp nên quần thể vi sinh vật biểu sinh có thành phần và số lượng kém phong phú như trong vùng rễ. Vi sinh vật biểu sinh trên hạt phần lớn là các loài hoaị sinh chúng có thể bám vào bất cứ phần nào trên vỏ hạt, hoặc nằm giữa vỏ trấu và vỏ gạo. Một số loài vi sinh vật biểu sinh có thể quan sát được bằng mắt thường, một số loài khác chỉ có thể quan sát được bằng kính hiển vi, bằng cách cấy lên môi trường nhân tạo. Nhiều công trình còn cho thấy trong thời gian nông sản còn trên cây đang phát triển, có nhiều loài vi sinh vật biểu sinh nhưng không gây hại. Tuy nhiên khi thu hoạch nông sản được đưa vào kho, ở đây chúng tiết ra nhiệt trong quá trình sống và hô hấp làm cho đống hạt nóng lên , tạo điều kiện cho nhiều loài vi sinh vật khác phát triển và thúc đẩy các qua trình sinh hoá trong hạt hoạt động mạnh . Trong hạt thường có nhiều nấm mốc nấm men và đặc biệt là rất nhiều các loài vi khuẩn.Trong quá trình xây xát hạt cũng có thể nhiễm thêm các loài khác trong không khí. Ngoài ra vi sinh vật biểu sinh cũng có thể là kí sinh một phần sống trên các bề mặt và một phần sống trong các mô bào của hạt. 1.2 Các nhóm vi sinh vat Chủ yếu là các nấm, vi khuẩn, xạ khuẩn. 1.2.1/NẤM: có 2 loại nấm kí sinh và nấm biểu sinh. Khác biệt so với vi khuần, có nhiều đặc điểm giống vi sinh vật, nhưng khác là không có sắc tố quang hợp và có thể là ít phân hoá về mặt hình thái hơn. Thể dinh dưỡng của nấm có thể chỉ là một tế bào riêng lẻ như nấm men, hoặc ở dạng sợi phân nhánh chằng chịt như nấm mốc. *Sợi nấm có hai loại : sợi cơ chất (sợi dinh dưỡng) bám chặt vào sợi cơ chất để hấp thu dinh dưỡng và sợi khí sinh phát triển trong không khí trên bề mặt cơ chất, chính sợi khí sinh sẽ mọc ra cành bào tử. Một số nấm kí sinh có sợi phát triển phát triển vào trong tổ chức thực vật gọi là sợi nội sinh hoặc phát triển trên bề mặt được gọi là sợi ngoại sinh. Từ sợi nấm sẽ mọc ra các cơ quan đặc biệt, là vòi hút cắm sâu vào mô để hấp thu dinh dưỡng. *Nấm kí sinh : tìm thấy ở các loài -Diplodia macrospora -Diplodia zeae -Fusarium spp -Gibberella fujikuroi -Gibberella zeae -Helm.oryzae -Helm.carbonum *Nấm biểu sinh: thường gặp ở các loài nấm mốc và nấm men. Nấm mốc thường tìm thấy trên lá cũng như trên hạt các loại cây hòa bản, thường gặp là : -Penicillium spp -Aspergillus spp -Alternaria spp -Cephalothecium spp Nấm men thường gặp là : -Torula sp -Monilia spp -Oospora sp -Chromosporium maydis -Fusarium griseum Ngoài ra còn tìm thấy Candida albicans và một số loài Candida khác. Vi khuẩn trên vỏ hạt thường gặp nhiều vi khuẩn hơn là nâm mốc ở bất kì một loại hạt nào. Số lượng vi khuẩn thay đổi tùy thuộc vào từng loại hạt thời gian cât giữ, thời kì thu hoạch tìnht trạng hạt và điều kiện bên ngoaì. Số lượng vi khuẩn trên hạt thường dao động trong khoảng 10.000-300.000 tế bào/hạt. Trên vỏ hạt thường gặp là vi khuẩn hoại sinh, đa dạng gồm những loài có bào tử cũng như không bào tử,háo khí, yếm khí , ưa nhiệt chịu rét.Người ta tìm thấy khoảng 100 loài vi khuẩn khác nhau thuộc các họ: -Pseudomonadaceae -Micrococcaceae -Enterobacteriaceae -Bacteriaceae -Bacillaceae thường gặp nhất là : -Bacterium herbicola aureum -Bact.fluorescens -Bacillus vulgatus -Bac.mesentericus -Bac.mycoides -Bac.subtilis 1.2.2/XẠ KHUẨN : Xạ khuẩn là nhóm vi sinh vật đơn bào, có cấu tạo là sợi nấm, nhưng có cấu trúc và kích thước tế bào giống vi khuẩn. Sợi xạ khuẩn không có vách ngăn, khuẩn ty xạ khuẩn thường mỏng hơn khuẩn ty của nấm mốc (đường kính 0,5-1,5µm khoảng 1/10 của nấm mốc ).Khi nuối cấy trên môi trường thạch khuẩn ty xạ khuẩn phát triển thành hai loại : một phát triển sâu vào trong môi trường để hút nước, thức ăn; còn một loại phát triển ra ngoài không khí trên bề mặt môi trường, gọi là khuẩn ty khí sinh. Một số nhánh phân hoá của sợi khí sinh sẽ phát triển thành cành bào tử: cành bào tử dài, ngắn, hình dạng khác nhau tùy từng loài xạ khuẩn. Trên mỗi cành bào tử thường khoảng 30-200 bào tử có hình cầu, quả lê, hình tru, bề mặt trơn, xù xì hoặc có nhiều gai nhỏ. Khi bào tử trửơng thành mang cành bào tử phân giải để phóng thích bào tử. Bào tử gíúp xạ khuẩn phân bố rộng trong thiên nhiên và cũng giúp chống lại điều kiện bất lợi của ngoại cảnh. Xạ khuẩn phân bố rộng trong thiên nhiên và quan trọng (phân giải chất hữu cơ bền vững như cellolose, kitin, keratin hoặc tạo kháng sinh) Số lượng xạ khuẩn trên hạt ngũ cốc khi cất giữ thay đổi từ hành chục ngàn đến hàng triệu tế bào trên 1 gam hạt số lượng tăng trong quá trình cất giữ. Chủ yếu thuộc về Streptomyces. Các loài thường gặp là Strept.albus. Ngoài ra còn gặp: Act. globisporum, Act. grminus, Act. griseus,………. 1.3/Hậu quả và tác hại: 1.3.2 Tác hại : Có nhiều cách tác hại: Nấm và vi khuẩn có nhiều loại enzym khác nhau có thể phân hủy protide, lipide, glucide làm phân hủy mô thực vật của nông sản. Trong sợi nấm Asp. glaucum có khoảng 20 loại enzyme khác nhau. Trong quá trình sinh sống, nấm và vi khuẩn tiết ra các chất đầu độc mô bào của nông sản làm rối loạn hoạt động của các loại men oxy hoá trong mô. Các sản phẩm trung gian của quá trình trao đổi chất như các loại acid hữu cơ, rượu aldehyde, acetone, các sản phẩm phân hủy protide và một số chấ độc do vi sinh vật tiết ra sẽ phân hủy vách tế bào, xâm nhập các mô bào, đầu độc chất nguyên sinh. Trong quá trình sinh sống và hô hấp của vi sinh vật, nhiệt tỏa ra làm cho hạt hoặc rau quả nóng lên dễ bị hư là do nhiệt độ làm tăng hoạt động sinh sống và hủy hoại của chúng. Đối với rau quả khi cất giữ, các quá trình xảy ra tuỳ thuộc vào hoạt tính và số lượng các loại men có trong rau quả cũng như men của các loài vi sinh vật sống trong mô bào của chúng. Vì vậy khi rau quả bị nhiễm nấm và vi khuẩn thì các quá trình phân hủy chất dự trữ tăng nhiều. Như cà rốt bị nhiễm nấm Sclerotinia libertiana hàm lượng đường giảm từ 4-5% còn 1-2%. Trong một số trường hợp chất dinh dưỡng bị giảm đến “0”. Tác động cuả vi sinh vật đến quá trình trao đổi chất của các bộ phận dự trữ rất phức tạp, không ổn định. Tác động đó phụ thuộc và điều kiện ngoaị cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, thành phần các chất trong không khí. 1.3.2 Hậu quả: A) Vi sinh vật phát triển trên hạt làm mất vẻ đẹp bên ngoài và làm thay đổi màu sắc của hạt Một số loài vi sinh vật như Diplodia zeae ,Helminthosporium oryzae xâm nhập vào hạt ở các giai đoạn đầu trong quá trình phát triển làm cho hạt bị nhăn nheo ,có vết. Nếu xâm nhập muộn hơn, không ảnh hưởng đến vẻ bên ngoài B) Sợi nấm phát triển trên hạt làm phân hủy lớp vỏ ngoài , xuyên qua mô bào, xâm nhập và gây hại cho mô bào trong hạt , gây hại cho phôi nhũ C) Phôi nhũ hạt bị vi sinh vật xâm nhập có màu sắc đổi từ xám nhạt đến nâu , nếu nặng có thể bị phân hủy hoàn toàn . Vi sinh vật xâm nhập vào bên trong hạt gây hại và làm giảm tỉ lệ nảy mầm 80-100% . Hai giống nấm mốc Penicillium và Aspergillus làm giạm khả năng nảy mầm của hạt rất quan trọng Vi sinh vật sinh sản mạnh làm cho hạt dự trữ có mùi ẩm mốc là do nhiễm đặc biệt Penicillium và Aspergillus .Các đóng hạt thu hoạch chưa kịp phơi quạt có thể nhanh chóng phát triển mùi ẩm mốc sau vài ngày 1.4.Yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự phát triển của vi sinh vật: 1.4.1.Nhiệt độ : Nhiệt độ tăng lên trong giới hạn nhất định làm tăng hoạt động sống của các loài vi sinh vật do đó làm tăng hoạt động phá hoại của chúng. Vi sinh vật cần nhiệt độ để sinh trưởng ở những mức độ khác nhau, chia làm 3 nhóm: Nhiệt độ thấp nhất thích hợp Cao nhất chịu lạnh : -8à0ºC 10à20ºC 25à30ºC ưa nhiệt : 5à25ºC 20à40ºC 40à55ºC Chịu nhiệt cao: 25à40ºC 50à60ºC 70à80ºC Thông thường khử trùng ở nhiệt độ 121ºC, 1atm trong một thời gian nhất định. Khi vượt quá giới hạn nhiệt độ sinh trưởng vi sinh vật sẽ chết, các tế bào sinh trưởng với lượng nước cao sẽ chết nhanh so với các tế bào và bào tử chứa ít nước. Nhiệt độ cao nhất và thấp nhất của sự sinh trưởng chịu ảnh hưởng của độ ẩm, chất dinh dưỡng, nồng độ oxy, và một số yếu tố ngoại cảnh khác. Trong quá trình trao đổi chất vi sinh vật toả nhiệt, số lượng nhiệt tùy thuộc vào cường độ trao đổi chất và quá trình này chịu ảnh hưởng của nhiệt độ, ẩm độ, lượng oxi, lượng chất dinh dưỡng và cả tuổi của tế bào. Phần lớn nấm, vi khuẩn bị diệt khi đun nóng ở nhiệt độ 55ºC trong 10 phút, một số loài vẫn sống được khi đun nóng đến nhiệt 65ºC trong 10 phút. Bào tử khô của nhiều loại nấm chịu nóng được ở nhiệt độ 87ºC trong 30 phút, rất ít loài chịu được nhiệt độ 121ºC trong 30 phút như: Pen. chrysogenum; Pen. oxalicum; Asp. flavus; Asp. fuscus; Mucor racemosus. Bào tử của vi khuẩn chịu được nóng trong điều kiện ẩm cao hơn bào tử nấm, có khả năng chịu được 95ºC trong 45 phút hay hơn. Mức độ chịu nhiệt của bào tử những loại vi khuẩn khác nhau cũng khác nhau. Khả năng chịu nhiệt của một số loài vi khuẩn: Vi khuẩn Thời gian làm chết vi khuẩn khi đun nóng 100ºC Bacillus mycoides 3à10 phút B.anthracis 5à10 phút B.subtilus 120à180 phút B.cylindricus 1.140à1.200 phút 1.4.2 Đ ộ ẩm: Có ba nhóm chịu ẩm cao, ưa ẩm và chịu khô: +Nhóm chịu ẩm độ cao: yêu cầu độ ẩm không khí thấp nhất là 90%, phát triển tốt nhất là độ ẩm không khí gần 100%. Vi khuẩn nói chung là nhóm chịu ẩm cao, ví dụ Micrococcus roseus (yêu cầu độ ẩm là 90,5%), Bacillus mycoides (90%). Nấm mốc thì có mucor và một số nấm gây bệnh. +Nhóm ưa ẩm độ: yêu câu độ ẩm không khí thấp nhất là 80-90%, còn phát triển tốt là ở độ ẩm không khí 95%, như xạ khuẩn có yêu cầu độ ẩm 90-93%. +Nhóm chịu khô: yêu cầu độ ẩm dưới 80%, phát triển tốt ở độ ẩm gần 90%. Ví dụ : Asp. glaucus, Asp. candidus…. Nấm men thuộc loài chịu ẩm cao và ưa ẩm, yêu cầu độ ẩm tương đối của không khí thấp nhất 88-90%. Nấm mốc có nhu cầu tương đối khác, bào tử nấm mốc có thể nảy mầm ở độ ẩm thay đổi từ 62-99% và yêu cầu sẽ khác nhau khi nhiệt độ thay đổi. Nếu độ ẩm thích hợp thì bào tử sẽ nảy mầm trong một ngày, nếu độ ẩm thấp thì bào tử sẽ nảy mầm kéo dài trong vài tháng có khi vài năm hay hơn, nếu độ ẩm quá thấp, dưới mức thấp nhất của sự sinh trưởng thì bào tử nấm mốc dần dần sẽ chết đi. Trong điều kiện không thuận lợi, từng bào tử của khuẩn lạc vi sinh vật sẽ chết với tốc độ khác nhau. Trước khi chết tốc độ nảy mầm giảm xuống và tốc độ phát triển của nấm mốc sẽ chậm lại. Nếu độ ẩm của không khí giảm đến mức thấp nhất khi thiếu độ ẩm sợi nấm phát triển không bình thường, phồng to lên xoắn lại và tạo thành nhiều ngăn ngang, sợi nấm mất khả năng ăn sâu vào mô kí chủ. Quá trình hình thành bào tử của nấm mốc tiến hành nhanh khi độ ẩm tăng. Độ ẩm có nhiều tác dụng với quá trình nảy mầm: Nấm mốc Cladosporium fulvum tạo thành bào tử khi độ ẩm không khí từ 60-80%. Helm. sativum tạo thành bào tử có kích thước nhỏ khí độ ẩm không khí thấp. Đối với hạt khi độ ẩm tăng thì vi sinh vật phát triển mạnh. Độ ẩm giới hạn để vi sinh vật phát triển khoảng 15-16% nếu chênh lệch ±2% thì ảnh hưởng đến hoạt động sống của vi sinh vật có thể tăng lên hay giảm đi, nhưng không phải khi độ ẩm tăng là tất cả các loài vi sinh vật đều phát triển mà tuỳ loại . Đối với nông sản có độ ẩm thấp, mặc dù có thể có những vi sinh vật tồn tại song hoạt động của chúng không biểu hiện rõ rệt, vì thế sản phẩm có thể bảo quản lâu mà không bị hư hại. 1.4.3Ảnh hưởng của oxy: Vi khuẩn hiếu khí : Clost.butyricum phát triển ở nồng độ oxy cao nhất là 0,27% còn có thể sống được 10 ngày nếu không khí chứa 0.59% oxy (tính theo thể tích). Vi khuẩn hiếu khí có khả năng tạo bào tử như Bac. megaterium và Bac. mycoides thì nồng độ oxy thấp nhất cho sự sinh trưởng là 0,8%. Để sinh sản các loài thuộc chi Bacterium cần lượng oxy cao hơn các loài vi khuẩn khác như Pseudomonaceae, Enterobacteriaceae và Strepyococcus thì cần oxy thấp. Tuy nhiên mức độ mức độ cần thiết của vi khuẩn với oxy phụ thuộc vào sự có mặt của cac chất dinh dưỡng. Phần lớn các loại nấm đều hiếu khí thật sự, chúng ngừng tạo bào tử, bào tử ngừng nảy mầm vẫn còn phát triển tốt. Một số loài nấm men và một số Mucor là những loài hiếu khí trung bình. Chúng có thể sinh trưởng trong thời gian ngắn trong điều kiện yêm khí, nhưng không tạo bào tử được. Các loài xạ khuẩn thuộc Streptomyces và Nocardia cũng là loài yếm khí. 1.4.4 /Ảnh hưởng của CO2 Khí CO2 có tác dụng diệt vi sinh vật khá cao đối với nấm và cả vi khuẩn. Ở các nồng độ khác nhau, CO có tác dụng kìm hãm đối với các loại Penicillium, Aspergilus, Mucor. Ở nồng độ 50% có thể diệt được Penicillium, còn Aspergillus tương đối chịu được nồng độ cao hơn, ở 77-90% vẫn còn phát triển được. 1.4.5 Ảnh hưởng cuả pH: Phạm vi pH nói chung các loài vi sinh vật từ 4,5- 9 vượt quá giới hạn này sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển và có thể tiêu diệt chúng. Nấm men và nấm mốc có thể phát triển trong môi trường khá acid (pH 3- 6) vi khuẩn và xạ khuẩn nói chung phát triển tốt ở pH trung tính (pH 6,5- 7,5), vi khuẩn gây thối và vi khuẩn nitrate hoá phát triển ở pH 6.5- 8. 1.5/Các biện pháp phòng chống: *Phương pháp vật lí như: khô, lạnh, kín, chiếu xạ……… *Có thể dùng các chất độc hóa học để tiêu diệt vi khuẩn (dùng kèm với các biện pháp hỗn hợp) *Phương pháp chủ yếu phòng chống vi sinh vật trong kho là tạo điều kiện ẩm độ, nhiệt đô và thoáng khí thích hợp. +Cần điều hòa độ ẩm trong kho là biện pháp thiết thực để ức chế sự phát triển của vi sinh vật trên nông sản. +Nhiệt độ thích hợp cần tránh, phải điều chỉnh nhiệt độ thấp hơn đối với một số lớn nấm mốc (23-30oC) sẽ làm chậm sự phát triển của chúng. Đối với thóc giống trước khi cất giữ phải phơi quạt để cất giữ lâu, hạt thóc rất nhạy cảm đối với tác động của nhiệt độ và ẩm độ; cần tránh để hạt thóc không bị ướt hay xây xát tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập. Quạt và mở kho thoáng khí trong ngày trời nắng là biện pháp tốt nhất để chống lại sự phát triển cuả vi sinh vật. Tuy nhiên để bảo quản tốt nông sản trong kho cần phải thực hiện đầy đủ các biện pháp phòng trừ hỗn hợp. 2.Tác hại trên cây trồng: Vi sinh vật gây thiệt hại rất lớn đến lĩnh vực nông nghịêp, đặc biệt là cây trồng. Thực vật lành mạnh là khi tất cả các cơ quan hoạt động bình thường, sự sinh sản tiến triển một cách tự nhiên và điều hoà. Ngược lại là cây bị bệnh, trường hợp côn trùng ăn lá và hút nhựa cây, thì không là bệnh mà làm cho cây mất sinh lực rơi vào tình trạng dễ bị nhiễm. Có hai nguyên nhân gây bệnh: Vô kí sinh do ảnh hưởng của những tác động bên ngoài không do vi sinh vật gây nên (do khí hậu, đất đai thiếu dinh dưỡng). Bệnh kí sinh là do ảnh hưởng của vi sinh vật thuộc về ẩn hoa (nấm, vi khuẩn, rong, rêu) hoặc do độc tố của virus. Bệnh thực vật do nấm virus vi khuẩn gây ra là quan trọng hơn cả. Tác động của kí sinh gây ra sự thay đổi trong quá trình sinh lí dẫn đến sự thay đổi trên từng bộ phận của cây. *SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA THỰC VẬT VÀ VI SINH VẬT: +Cộng sinh: ích lợi hỗ trợ cho cả hai đơn vị. +Kí sinh: chỉ ích lợi cho đơn vị kí sinh thiệt hại cho đơn vị kia. Về thảo mộc bệnh học còn chú ý đến hoại sinh, trong khi kí sinh sống nhờ chất hữu cơ sinh hoạt, thì hoại sinh sống nhờ chất hữu cơ hoại tử: đây là trường hợp kí sinh giảm thiểu. 2.1 /. Nấm kí sinh cây trồng: 2.1.1Giới thiệu chung: ●./ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NẤM GÂY BỆNH Tế bào có nhân thực (Eukaryotae), cơ quan sinh sản có cấu tạo dạng sợi, sinh sản bằng bào tử, sống dị dưỡng, không có diệp lục. 1 loại bệnh có thể do 1 hay nhiều loại nấm gây ra. 1 loại nấm có thể gây bệnh cho 1 hay nhiều loại cây. Bệnh cây do nấm có nhiều hơn do những vi sinh vật khác. Cơ thể của nấm trừ một số ít là đơn bào, có hình tròn/bầu dục nằm đơn độc hay ghép lại với nhau, còn đa số là những sợi nấm không màu, phân nhánh nhiều, tạo thành đám chằn chịt gọi là hệ sợi nấm (mycelium). Hầu hết các loài nấm, hệ sợi đều nằm trong cơ chất (đất, gỗ mục, xác thực vật...) và chỉ có những sợi mang cơ quan sinh sản ở trên đầu mới ở trên bề mặt cơ chất. 2.1.2 Nguồn gốc phát sinh bệnh: Vi sinh vât tồn tại khắp mọi nơi trong môi trường; tùy vào điều kiện ngoại cảnh mà chúng có thể nhiều hay ít……Với những vi sinh vật gây bệnh trên cây trồng thì chúng co thể tồn tại trong không khí ngoài môi trường dưới những dạng bào tử thể;hoặc tồn tại sẵn trong đất; hay trong chính cây con cây giống kí chủ…khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ lan truyền gây bệnh, ngoài ra chúng còn tồn tại trên một cơ thể trung gian (từ cá thể trung gian sẽ truyền bệnh qua cây kí chủ chính khi có điều kiện thuận lợi). 2.1.3 Sự biến thái của sợi nấm: Sợi nấm có thể không có vách ngăn ngang (như mốc đen), vì vậy hệ sợi nấm như là một cộng bào phân nhánh chứa nhiều nhân. Hoặc sợi nấm có vách ngăn ngang thành sợi đa bào nhưng vách ngăn ấy chưa hoàn chỉnh (như Mốc xanh, vàng). Ở các nấm cao, sợi nấm kết bện chặt chẽ với nhau tạo thành những mô giả, có hình dạng, kích thước và chức năng khác nhau: - Sợi nấm dạng rễ (rhizomorph): các sợi nấm kết chặt lại thành những dải lớn trông giống như rễ cây, thường gặp trên các vỏ cây. Ở nấm bậc cao, thể dạng rễ nầy nối liền thể quả với các vật bám ở dưới đất. - Bó sợi (synnema): là các sợi nấm dinh dưỡng không làm nhiệm vụ sinh sản, thường tụ lại hoặc dinh lại với nhau thành các bó sợi xếp song song. - Thể đệm (stroma): cấu tạo bởi nhiều sợi nấm kết chặt lại với nhau, tạo thành một khối tương đối lớn (từ 1mm đến hàng chục cm). Có 2 loại thể đệm: thể đệm dinh dưỡng không mang cơ quan sinh sản và thể đệm sinh sản có mang cơ quan sinh sản. - Hạch nấm (sclerotia): có hình hơi tròn hoặc hình không đều, bền ngoài có màu tối, bên trong là tổ chức sợi xốp hơn có màu trắng. Các tế bào của hạch nấm có vách dầy, trong chứa nhiều chất dự trữ nên hạch nấm chịu được những điều kiện bất lợi bên ngoài, khi gặp điều kiện thuận lợi, hạch nấm sẽ nẩy mầm và phát triển. - Vòi hút (haustorium): gặp ở nhiều nấm ký sinh, do một đoạn sợi biến đổi thành, đâm vào bên trong tế bào cây chủ để hút thức ăn. 2.1.4 DINH DƯỠNG & KÝ SINH CỦA NẤM Sợi nấm là cơ quan sinh trưởng, dinh dưỡng. Chúng tiết ra các enzyme để phân giải nguồn hợp chất hữu cơ từ bên ngoài thành hợp chất dễ hòa tan để thẩm thấu qua màng bán thấm của tế bào. Hệ thống enzyme của nấm rất phong phú gồm: nội enzyme và ngoại enzyme. Ngoại enzyme được tiết vào môi trường sống để phân giải hợp chất phức tạp thành chất dễ hấp thụ, chủ yếu là enzyme thủy phân amylaza và peptinaza. Nội enzyme của nấm dùng để dùng để tổng hợp các vật chất hấp thụ thành những hợp chất cần thiết cho quá trình sinh trưởng và sinh sản của nấm, chủ yếu là enzyme oxy hóa khử oxydaza và dehydraza,… Ngoài hệ thống enzyme, nhiều loại nấm còn sinh ra nhiều loại độc tố kiềm hãm hoạt động của hệ thống enzyme tế bào ký chủ, phá hủy quá trình trao đổi chất của tế bào như phá vỡ độ thẩm thấu của màng tế bào. Độc tố thường là các acid hữu cơ (acid oxalic, fusarinic, alternaric), nhóm protein và các sản phẩm phân giải của protein (ure, amoniac) nhóm polysaccharide (Piricularin) và các chất bay hơi (acid cianic) Ví dụ: Helminthosporium maydis chủng T tạo T – toxin Helminthosporium victoriae tạo Victorin Pyricularia oryzae tạo Acid picolinic Fusarium sp tạo acid fusarinic Aspergillus flavus tạo Aflat
Tài liệu liên quan