Để hiểu nguồn gốc tên họ Việt Nam, ta cần hiểu nguồn gốc
tên họ tại tây phương vì tên họ tại Âu Châu mới xuất hiện
gần đây nên các học giả biết rõ tiến trình phát sinh tên họ.
Nhờ đó, ta sẽ thấy việc phát sinh tên họ tại Việt Nam cũng
như Trung Quốc, không ra ngoài nguyên tắc chung của nhân
loại.
44 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tên họ của người tây phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÊN HỌ CỦA NGƯỜI
TÂY PHƯƠNG
Để hiểu nguồn gốc tên họ Việt Nam, ta cần hiểu nguồn gốc
tên họ tại tây phương vì tên họ tại Âu Châu mới xuất hiện
gần đây nên các học giả biết rõ tiến trình phát sinh tên họ.
Nhờ đó, ta sẽ thấy việc phát sinh tên họ tại Việt Nam cũng
như Trung Quốc, không ra ngoài nguyên tắc chung của nhân
loại.
Trong mục này, ta sẽ nghiên cứu: (a) Lịch sử tên họ tại Âu
Châu và Do Thái. Sở dĩ ta cần biết tên họ tại Do Thái vì
nhiều tên họ tây phương bắt nguồn từ tiếng Do Thái, (b) Các
nguồn phát sinh tên họ tại tây phương, (c) Số tên họ và sự
phân phối tên họ tại một số nước tây phương, (d) Sự biến đổi
tên họ tại tây phương, tiêu biểu là Hoa Kỳ.
Lịch sử tên họ tại Châu Âu - Do Thái
1. Hệ Thống Tên Họ Của Người La Mã :
Tên họ tại Âu Châu xuất hiện rất sớm. Thời tiền sử, dân La
Mã có một tên như Romulus, Remus, Manius. Đến khi người
La Mã bắt đầu chia thành bộ lạc, thị tộc, gia tộc thì hệ thống
tên người La Mã dần dần có 3 thành phần mà tiếng Latin gọi
là Praenomen - Nomen - Cognomen. Theo tác phẩm Latin
Dictionay and Grammar Aid của viện đại học Notre Dame ở
Hoa Kỳ thì Praenomen là tên chính; Nomen là tên họ;
Cognomen: cũng là tên họ nhưng được đặt theo đặc tính để
thêm sự phân biệt. Ví dụ tên Gaius Valerius Catullus thì
Gaius: Praenomen; Valerius: Nomen; Catullus: Cognomen.
Ban đầu, chỉ tên những người thuộc gia đình quý tộc mới có
hai thành phần : Praenomen và Nomen. Còn tên của giới hạ
lưu chỉ có một thành phần : Praenomen.
Theo tác giả Varro (116-27 B.C.), số tên chính của người La
Mã rất giới hạn, chỉ có 32 tên nhưng 18 tên là thông dụng:
Appius, Aulus, Decimus, Gaius, Gnaeus, Kaeso, Lucius,
Mamercus, Marcus, Marius, Numerius, Publius, Quintus,
Servius, Sextus, Spurius, Tiberius, Titus. Mỗi gia đình qúy
tộc chỉ được chọn một vài tên trên đây. Ví dụ gia tộc Claudii
chỉ được chọn tên chính Appius; còn gia đình Cornelli được
chọn các tên như Gnaeus, Lucius, Pubius, và Servius. Vì sự
giới hạn, nên nhiều người có tên chính giống nhau, thành ra
tên Praenomen mất ý nghĩa và người ta thường viết tắt tên
này.
Tiếp theo Praenomen là Nomen. Từ Nomen trong hệ thống
tên người La Mã được Bách Khoa Từ Ðiển Britannica[74]
định nghĩa là tên gia tộc phụ hệ, tức tên họ. Như vậy, ban đầu
Nomen là tên họ. Cũng như tên chính, Nomen cũng chỉ có
một số tên như Antonius, Aurelius, Claudius, Cornelius,
Fabius, Tullius. Tên Nomen dành riêng cho các gia đình quý
tộc nên dù số tên họ Nomen có giới hạn, cũng đáp ứng đủ
nhu cầu. Ðến khi xã hội La Mã có nhiều gia đình qúy tộc
hơn, thì người ta sáng chế thêm thành phần thứ ba mà họ gọi
là Cognomen.
Cognomen cũng là tên họ như Nomen, nhưng là các từ chỉ
đặc tính, giống với đặc tính tên họ mà ta thấy ngày nay tại
các nước trên thế giới, như tên họ xuất phát từ tên nghề
nghiệp, từ nét đặc thù trên cơ thể, từ địa danh. Ví dụ tên họ
Cicero có nghĩa là hạt đậu, Pictor: họa sĩ, Plautus: chân bằng,
Tacitus: yên lặng. Vậy trải qua thời gian, cuối cùng tên người
La Mã gồm ba thành phần: Praenomen + Nomen +
Cognomen, tức Tên Chính + Tên Gia Tộc + Tên Họ. Ví dụ
tên của văn hào Cicero là Marcus Tullius Cicero (106-43
TCN), và tên của danh tướng Caesar là Gaius Julius Caesar
(100-44 TCN). Ðiều đáng chú ý là hệ thống tên gồm ba thành
phần trên vẫn chỉ dành cho giới qúy tộc và nó tồn tại suốt
thời đại đế quốc La Mã và các nước thuộc địa. Về sau, vào
khoảng thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên, hệ thống tên của
người La Mã bị tàn dần lụi vì hai lý do:
a. Dân nô lệ được giải phóng: Mỗi khi người nô lệ được giải
phóng, họ lấy tên chủ nhân làm tên của mình. Nhưng khi
hàng triệu người trong các thuộc địa được giải phóng, trở
thành công dân La Mã cả, thì ai cũng có danh xưng gần
giống nhau, thành ra hệ thống tên người La Mã mất ý nghĩa,
không đáp ứng được nhu cầu phân biệt. Ví dụ văn hào
Marcus Tullius Cicero giải phóng ba người nô lệ Syria, cả ba
người đó sẽ mang tên Marcus Tullius Syria.
b. Sự xuất hiện đạo Thiên Chúa: Đang khi hệ thống tên của
người La Mã mất dần ý nghĩa thì đạo Thiên Chúa xuất hiện.
Tín đồ tôn giáo này không thiết tha với các tên La Mã cũ vì
họ là nạn nhân của giai cấp quý tộc trong các cuộc cấm đạo.
Thay vào đó, họ lấy tên những người mà giáo hội Kitô Giáo
nhận là thánh để đặt cho mình. Ví dụ Petrus, Joannes, Maria,
Thimotheus, Laurentius. Trong lúc Kitô Giáo ngày càng phát
triển và lan tràn khắp Âu Châu thì đế quốc La Mã bước vào
giai đoạn suy tàn. Hệ thống tên của La Mã bị mất đi, phải chờ
đến thế kỷ thứ 10, Âu Châu mới có hệ thống tên họ mới.
2. Hệ Thống Tên Họ Của Người Do Thái:
Người Do Thái rất chú trọng đến vấn đề gia phả, người được
kính trọng là người giữ được dòng máu thuần túy Do
Thái[75]. Do vậy, từ ngữ tên họ đã thấy xuất hiện trong kinh
thánh của Do Thái Giáo. Tuy nhiên, từ ngữ này chưa được
hiểu đầy đủ như ý nghĩa chúng ta hiểu ngày nay về tên họ. Ý
nghĩa gần nhất để chỉ tên họ là các tên Rechabites, Korahite
tức tên các ông tổ chung. Đến đầu Công Nguyên, ta thấy
người Do Thái đã manh nha biết dùng hệ thống tên họ. Mỗi
khi muốn phân biệt người này với người nọ, họ thêm các chi
tiết như là con ai, sinh quán ở đâu, nghề nghiệp gì. Các ví dụ
sau đây được trích trong kinh thánh Tân Ước: Simon
Barjonas nghĩa là ông Simon con ông Jonas (tiếp đầu ngữ
Bar có nghĩa là con), hay Judas Barsabas: Judas con ông
Sabas. Về sinh quán, trong Tân Ước ta thường gặp các tên
như: Judas người Galilean, Simon người Canaan. Về nghề
nghiệp, ta gặp các tên như Philip, Thomas, Mathew là các
người thu thuế. Về tính tình, ta có các tên Judas Iscariot, kẻ
sẽ phản bội. Các chi tiết trên về sau được người tây phương
thời Trung Cổ áp dụng trong việc hình thành tên họ.
Cũng trong Tân Ước, trong bản dịch tiếng Việt của linh mục
Trần Văn Kiệm, ta gặp kiểu nói Simon biệt danh Phêrô và
bản dịch tiếng Anh ta gặp Simon surnamed Peter. Với bản
dịch tiếng Anh, từ ngữ surnamed làm ta lầm tưởng ông
Simon có tên họ là Phêrô vì surname có nghĩa là tên họ. Tuy
nhiên, theo nhà tính danh học Elsdon C. Smith thì tên Phêrô
chỉ là tên khác của ông Simon[76]. Tóm lại, vào thời gian
đầu Công Nguyên, người Do Thái mới chỉ có khái niệm về
tên họ.
3. Hệ Thống Tên Họ Mới Tại Âu Châu:
Hệ thống tên họ mới tại Âu Châu xuất hiện khoảng cuối thế
kỷ thứ 10 và kết thúc vào thế kỷ 16[77]. Vì mới xuất hiện,
nên các nhà tính danh học biết khá rõ về nguồn gốc và tiến
trình phát triển. Ông Elsdon C. Smith, trong tác phẩm The
Story of Our Names, đưa ra lý thuyết cho rằng muốn hiểu
nguồn gốc phát sinh tên họ tại xã hội nào, ta cần biết tổ chức
xã hội và hình thái kinh tế vào thời điểm đó. Áp dụng lý
thuyết trên, ông nghiên cứu nguồn gốc phát sinh tên họ tại
Anh Quốc[78].
Năm 1066, dân số Anh vào khoảng 2 triệu người, trong đó
hơn 90% cư ngụ trong các trang ấp của các lãnh chúa. Số còn
lại sống trong 10 thành phố mà nơi lớn nhất là Luân Đôn có
khoảng 35,000 người. Vào thời đó, dân Anh chia làm hai giai
cấp: giai cấp tự do và giai cấp nông nô hay nô lệ. Giai cấp tự
do gọi là Freeman[79], có quyền sở hữu đất đai, thú vật.
Thành phần này chiếm tỷ lệ rất nhỏ và được gọi chung là địa
chủ (Franklin). Còn hầu hết dân cư thuộc giai cấp nông nô,
được gọi là Villeins và Servi.
Tại nông thôn, đứng đầu tầng lớp địa chủ là Lord mà ta gọi là
lãnh chúa. Mỗi lãnh chúa sở hữu một hay nhiều trang ấp.
Lãnh chúa có thể là một bá tước, quý tộc, một người tự do,
một giám mục (Bishop), bề trên tu viện (Abbot), giới chức
giáo hội. Dưới quyền lãnh chúa là một quản gia, gọi là
Steward mà nhiệm vụ chính là đại diện lãnh chúa điều khiển
công việc sản xuất và tòa án trong các trang ấp. Dưới quản
gia là một đốc công, gọi là Bailiff mà nhiệm vụ chính là đốc
thúc thợ thuyền làm việc. Trường hợp lãnh chúa có nhiều
trang ấp thì mỗi nơi có một phụ tá quản gia gọi là Reeve.
Ngày nay, chữ này được hiểu là quận trưởng, thị trưởng, chủ
tịch xã.
Về các thợ thuyền trong trang ấp, có các thợ mộc
(Carpenter), người đánh xe (Carter), thợ cày (Plowman), thợ
làm bánh xe (Wheelwright), tiều phu (Woodwright), người
trông coi rừng (Forester), (Woodward), người coi công viên
(Parker), thợ nuôi ong (Beekeeper), người chăn chiên
(Shepherd), chăn bò (Oxherd, sau biến thành tên Oxford), thợ
rèn (Smith), thợ xay bột (Miller), thợ làm bánh (Baker) v.v
Tại thành thị, cư dân chia làm phường hội. Có hai loại
phường hội: phường hội nghề nghiệp và phường hội thương
mại. Phường hội thương mại bao gồm tất cả những người
buôn bán gọi là Merchant hay Tradesmen. Phường hội nghề
nghiệp có các nghề như thợ vàng bạc (Goldsmith), thợ dệt
(Weaver), thợ thuộc da (Skinner), thợ làm cung (Fletcher),
thợ làm tên (Arrowmaker), thợ mộc (Carpenter) v.v Các
người thợ làm việc tại nhà mình. Vào năm 1340, ông Elsdon
C. Smith cho biết tại Luân Đôn có khoảng 40 phường hội
nghề thủ công[80]. Đứng đầu mỗi phường hội là người có
chức Alderman. Chữ này nay được hiểu là ủy viên thành phố.
Dưới quyền ông là các viên chức có danh xưng giống như
các viên chức ở trang ấp như Steward, Bailiff, Deans,
Chaplain, Skevens (sau biến thành tên họ Stevens), Usher
v.v
Đó là hình ảnh khái quát thành phần xã hội tại các nước tây
phương vào thời Trung Cổ. Tuy thế, cũng đủ để ta thấy tiến
trình phát sinh tên họ. Tất cả những danh xưng chỉ người và
chức vụ trên đây đã biến thành tên họ của những người nói
tiếng Anh trên thế giới. Và tiến trình phát sinh tên họ tại Âu
Châu cũng giống tiến trình của Anh Quốc.
Theo lý thuyết của Elsdon C. Smith, tại bất cứ xã hội nào, khi
dân cư còn thưa thớt, phương tiện giao thông còn giới hạn,
quyền sở hữu đất đai còn nằm trong tay một thiểu số, thì
người ta chỉ cần tên riêng mà không cần tên họ, vì nhu cầu
phân biệt các cá nhân chưa cần thiết. Hơn nữa, vấn đề kế
thừa tài sản chưa cần đặt ra vì đại đa số dân chúng thuộc tầng
lớp vô sản. Tại Anh Quốc, trước thế kỷ thứ 10, đàn ông
thường chỉ mang những tên chính như William, John, Robert
v.v Đàn bà mang những tên như Lucy, Alice, Agnes v.v
Nhưng khi phương tiện giao thông phát triển, dân số gia tăng,
nhiều người có quyền tư hữu, thì nhu cầu tên họ bắt đầu xuất
hiện.
Trước hết, các lãnh chúa và hiệp sĩ Anh có dịp đi ngoại quốc,
họ nhận thấy tại Pháp và một số các quốc gia khác, người ta
có tên họ để phân biệt. Do đó giới quý tộc Anh đã bắt chước
tục lệ nhận tên họ để tiện việc kế thừa tài sản. Ban đầu, các
lãnh chúa thường lấy tên tài sản đất đai của mình làm tên họ
như các tên Greenfield (cánh đồng xanh), Meadow (đồng cỏ),
Westfield (đồng phía tây), Hill (đồi), Wood (rừng), Hall (lâu
đài), Franklin (địa chủ) v.vDo đó mà ngày nay, ta thấy
người Anh Mỹ có những tên họ như Greenfield, Hill, Hall,
Franklin v.vSau lãnh chúa và địa chủ, giai cấp nông nô,
thợ thuyền, và giới thương mại cũng bắt đầu có tên họ, nhưng
theo một tiến trình khác.
Như trên đã nói, mỗi trang ấp thời Trung Cổ có một giáo
đường Kitô Giáo và một toà án mà nhiệm vụ chính là xét xử
các vụ tranh tụng và cấp phát giấy tờ hành chính. Lúc trang
ấp còn ít người, công việc trên rất đơn giản. Vị linh mục khi
làm phép rửa tội, chỉ ghi tên người đó vào sổ để lưu trữ. Thơ
ký toà án cũng chỉ cần ghi tên riêng như John, Davis,
Anthony là đủ vì mọi người đều biết đó là ai. Nhưng khi dân
số gia tăng, vị linh mục chính xứ cũng như toà án thấy cần có
thêm chi tiết để phân biệt người này với người nọ, nên đã
thêm những chi tiết vào đàng sau tên chính, như bố mẹ là ai,
làm nghề nghiệp gì, hình dạng ra sao, hiện đang ở đâu. Tất cả
những chi tiết đó của giáo đường và toà án dẫn đến việc hình
thành tên họ của người tây phương ngày nay. Điều này cũng
giải thích được tại sao tên họ người tây phương được viết sau
tên chính, trái với tục lệ Trung Quốc, Việt Nam, Đại Hàn là
tên họ đặt trước tên chính.
Các nguồn phát sinh tên họ tại Châu Âu
Các nhà tính danh học Âu Châu và Mỹ Châu dựa trên chi tiết
thêm vào đàng sau tên chính để đưa ra lý thuyết xếp loại và
giải thích nguốn gốc tên họ. Sau khi được kiểm nghiệm tại
các xã hội, lý thuyết trên đã trở thành định luật của ngành
tính danh học. Theo nhà tính danh học Elsdon C. Smith,
nguồn gốc tên họ của con người nói chung được chia làm bốn
nhóm chính. Mỗi nhóm lại chia ra nhiều nhóm phụ. Bốn
nhóm chính là:
-Từ ngữ chỉ nghề nghiệp hay chức vụ biến thành tên họ.
-Từ ngữ chỉ địa danh hay nguồn gốc chủng tộc biến thành tên
họ.
-Từ ngữ chỉ đặc điểm cơ thể, tính tình hay biệt hiệu biến
thành tên họ.
-Tên riêng của cha, hay tên thánh biến thành tên họ.
Giáo sư Elsdon C. Smith đã phân tích 7000 tên họ phổ biến
nhất ở Hoa Kỳ và thấy tỉ lệ tên họ ở Hoa Kỳ được phân phối
theo 4 nhóm như sau:
Ðịa danh: 43.13%
Tên riêng của cha hay tên thánh : 32.23%
Tên nghề nghiệp : 15.16%
Từ chỉ đặc điểm cơ thể, tính tình, biệt hiệu : 9.48%[81].
Tác giả C.N. Matthews, trong tác phẩm English Surnames
xuất bản tại Luân Ðôn năm 1966, đã phân tích tên họ các dân
biểu hạ viện Anh cho thấy:
Ðịa danh: 36.5%
Tên riêng của cha hay tên thánh: 33%
Tên nghề nghiệp: 17.5%
Từ chỉ đặc điểm cơ thể, tính tính, biệt hiệu: 13%[82].
Tỷ lệ 4 nhóm trên cũng không phân phối đồng đều ở các
quốc gia khác nhau. Ở Ái Nhĩ Lan, Tô Cách Lan, xứ Wales,
Tây Ban Nha đa số tên họ thuộc nhóm tên riêng của cha hay
tên thánh. Ở Anh, Ðức, Pháp đa số tên họ thuộc nhóm địa
danh. Ở Ý, Bồ Ðào Nha nhiều tên họ thuộc nhóm từ chỉ đặc
điểm cơ thể hay biệt hiệu.
1. Từ Ngữ Chỉ Nghề Nghiệp Hay Chức Vụ Biến Thành
Tên Họ: Chúng tôi không thể liệt kê hết được tên nghề
nghiệp, tên chức vụ biến thành tên họ, chỉ trưng ra một số thí
dụ điển hình tại một số quốc gia để chứng minh cho lý thuyết
này. Ví dụ:
a. Tên nghề nghiệp biến thành tên họ: Thợ rèn, thợ sắt: Tại
Anh, Mỹ: Smith. Pháp: Ferris, Fernald, Faure, Le Fevre. Tại
Đức: Schmidt, Schmitz, Schmitt, Schmith. Tây Ban Nha:
Ferraro, Ferrer, Herrera. Tại Syria: Haddad. Phần Lan:
Seppanen. Hung Gia Lợi: Kovacs. Nga: Kowalsky,
Kuznetsov. Tiệp Khắc: Kovar, Kovarik. Ba Lan: Kovalik,
Kowalski, Kowalczyk.
Thợ mỏ: Anh Mỹ: Minor, Miner, Collier (do Coal:than).
Đức: Koehler, Kohler. Ba Lan: Weglarz. Ý Đại Lợi:
Carbone. Tây Ban Nha: Arquilla. Tiệp Khắc: Hornik. Pháp:
Ménier.
Thợ mộc: Anh Mỹ: Carpenter, Joyner, Boardman, Sawyer.
Pháp: Carpentier, Charpentier. Đức: Schreiner, Shriner,
Timmerman, Zimmerman.Tiệp Khắc: Kolar, Tesar.
Lithuania: Dailide. Hung Gia Lợi: Asztalos.
Thợ đóng giầy: Anh Mỹ: Shoemaker, Sutter, Boot. Pháp:
Lesueur, Chapin. Ý: Scarpelli. Tiệp Khắc: Svec. Hung Gia
Lợi: Varga, Balogh. Ukraina: Sevenko.
Thợ dệt: Anh Mỹ: Weaver, Webb, Webber. Hung Gia Lợi:
Takacs. Đức: Weber. Nguyên nghề nghiệp liên quan đến
quần áo biến thành tên họ, tác giả Gustave Fransson, trong
tác phẩm Middle English Surnames of Occupation 1100-
1350, đã liệt kê được 165 tên.
Thương gi a thành tên họ: Anh: Chapman, Chatman,
Merchant. Pháp: Marchand, Mercier, Minot. Đức Kraemer.
b. Tên chức vụ biến thành tên họ: Vào thời Trung Cổ, Kitô
Giáo có ảnh hưởng lớn tại Âu Châu nên các chức vụ trong
tôn giáo biến thành tên họ. Ví dụ ở Anh Mỹ có họ Pope: giáo
hoàng, họ Bishop: giám mục, họ Abbot: bề trên tu viện, họ
Priest: linh mục. Họ Clark (do Clerk) người giữ sổ sách trong
xứ đạo. Ở Đức có các họ: Pfaff, Pabst. Nga có Popov. Hy
Lạp có Pappas. Ba Lan có Kaplan, Caplan. Pháp có các họ
Chevallier, Maréchal, Prévost, Clerc, Abbey, Évêque. Theo
ông Smith, các họ chỉ phẩm trật giáo hội không phải vì họ là
giáo hoàng, bề trên tu viện, giám mục mà vì họ có dáng dấp,
cử chỉ hoặc có thiện cảm với các phẩm trật đó. Tên các chức
vụ quân đội biến thành tên họ như Anh Mỹ có họ Knight:
lính cận vệ. Pháp có họ Chevallier, Pointe: lính kỵ mã. Đức
có Ritter, Herrmann.
Tên các chức vụ hành chánh thành tên họ: Pháp: Maire: Thị
Trưởng, Gouverneur: Toàn quyền. Anh, Mỹ: Govern,
Alderman. Đức: Rathmann. Người thâu thuế Anh Mỹ: Toler,
Toll, Gabler. Pháp: Shockett. Đức: Zoll, Zoller.
2. Các Từ Liên Quan Ðến Môi Trường Ðịa Lý Biến
Thành Tên Họ:
Các từ chỉ địa danh biến thành tên họ có rất nhiều như: Hill
(đồi), Lake (hồ), Hall (lâu đài), Field (cánh đồng), Meadow
(đồng cỏ), Church (nhà thờ).
Tên quốc gia biến thành tên họ như họ France của Pháp, họ
England của Anh.
Tên địa phương trở thành tên họ như tại Pháp có các tên
Avignon, Breton, Lebreton, Normand, Lenormand. Tại Anh,
các địa danh như Kenti, Cornish, Devonish,Yorkshire biến
thành tên họ.
Tên các thành phố biến thành tên họ như Norfolk,
Northampton, Cambridgeshire.
Tên đồi, núi thành tên họ: Anh Mỹ có tên họ: Hill, Copley,
Coppinger, Clinton. Tại Đức: Besler, Buehler, Spitzer,
Nierman. Pháp: Dumont, Depew. Ý: Costa, Colletti, Zola.
Hung Gia Lợi: Hegy. Ái Nhĩ Lan: Bryant, Phần Lan: Maki.
Nga: Gorin.
Sông ngòi, suối, hồ thành tên họ: Anh Mỹ có tên họ: Lake,
Mott, Vose, Foss, Rynne, Flood, Floyd. Ái Nhĩ Lan: Monroe
hay Munro (người ở gần sông Roe) Ford. Tây Ban Nha: Rio.
Phần Lan: Joki. Đức: Breger, Kling, Klink. Pháp: Dupont
(người ở gần cầu).
Cây cỏ: Anh Mỹ có tên họ Wood, Emsly, Ashcraft, Hazlett
(tên ba loại cây). Đức và Thụy Sĩ: Rusch. Pháp: Broussard,
Olivier. Ba Lan: Dabrownski.
Tên súc vật biến thành tên họ: Anh Mỹ có họ Raven: qụa
đen, wolf: chó sói, Lamb: cừu, Cheerver, Kidd, Haver : con
dê, Fish: con cá. Ý Ðại Lợi có tên Capra, Leo: sư tử. Đức:
Bock. Tên ngựa biến thành tên họ như Ý có họ Cavallo,
Chevallo. Ba Lan: Siwek. Đức: Scheck, Schell.
3. Từ Ngữ Chỉ Đặc Điểm Cơ Thể, Tính Tình, Biệt Hiệu
Biến Thành Tên Họ: Các từ ngữ chỉ màu sắc da tóc, thân
hình béo gầy, mạnh khoẻ, ốm yếu, đều có thể biến thành tên
họ. Ví dụ:
Màu sắc da tóc: Tại Anh Mỹ có các tên họ Brown (nâu),
Blake (do từ black: đen), White (trắng), Reed (do từ Red:
đỏ). Đức: Brun, Bruns, Braun, Brauneis, Bruhn (nâu). Ý Đại
Lợi: Bruno (nâu). Tô Cách Lan: Bissett. Nga: Chernoff. Tiệp:
Cherney. Pháp có họ Lerouge, Roux, Roussel, Roussseau,
Roujon là màu đỏ.
Từ ngữ chỉ người hói đầu: Mỹ, Anh có họ Bald (hói) Balch,
Ballard, Baldwin. Pháp: Coffin, Chavin. Đức Glatz. Ái Nhĩ
Lan: Mullin. Ý: Luna
Các từ chỉ người bèo gầy, cao thấp: Anh Mỹ có họ Tall, Big,
Biggs, Hager, Long, Longfellow. Tô Cách Lan: Laing. Ái
Nhĩ Lan: Langan. Đức: Feltz, Hoch, Homan, Lang, Langer.
Pháp: Long, Lelong, Legrand. Ý: Longo. Tây Ban Nha:
Statura. Hy Lạp: Makris.
Từ ngữ chỉ đầu to, đầu bé. Ý có họ Caputo, Capone là đầu to.
Ukraine: Glowacki. Pháp có Tester hay Testard nghĩa là đầu
không bình thường v.v
4. Tên Chính Của Cha Biến Thành Tên Họ: Có hai trường
hợp: một là lấy tên chính của cha làm tên họ, hai là lấy tên
thánh hay tên rửa tội làm tên họ.
a. Tên cha biến thành tên họ: Người con có thể giữ nguyên tự
dạng tên chính của cha làm tên họ, hoặc biến đổi đi chút ít.
Ví dụ từ một tên chính Gregory ta có các tên họ Gregg,
Grigg, Greggs, Griggs, Greig. Tên Gilbert biến thành Gibbs,
Gibbons, Gibbin, Gipps. Trường hợp này thông thường cha
là người nổi tiếng nên con nhận tên cha làm tên họ[83]. Số
tên họ tại Âu Châu và Mỹ Châu, sở dĩ nhiều hơn số tên họ
Việt Nam và Trung Quốc là nhờ cách thức biến đổi này.
Ngoài ra, người Âu Châu và Hoa Kỳ còn áp dụng phương
pháp thêm tiếp đầu ngữ hay tiếp vĩ ngữ để biến thành tên họ.
Ví dụ ông John có con và muốn lấy tên cha làm tên họ, ông
thêm chữ “son” vào sau chữ John thành Johnson, nghĩa là
con ông John. Bảng tóm tắt sau đây cho thấy nhiều quốc gia
áp dụng nguyên tắc này, chứng tỏ khái niệm huyết thống rất
phổ biến trên thế giới.
T
ê
n
n
ư
ớ
c
T
ê
n
c
h
a
T
i
ế
p
đ
ầ
u
n
g
ữ
T
i
ế
p
v
ĩ
n
g
ữ
Tê
n
họ
con
A J S Joh
nh/
M
ỹ
o
h
n
o
n
nso
n
H
y
L
ạp
N
i
c
o
l
o
P
u
l
o
u
s
Nic
olo
pou
lou
s
A
n
gl
os
ax
B
r
o
w
n
I
n
g
Bro
wn