I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin cùng với quá trình hội
nhập quốc tế toàn cầu, đòi hỏi nguồn nhân
lực phải có trinh đ ̀ ộ học vấn cao, có kiến thức
sâu rộng, có tay nghề vững vàng. Cao hơn là
có tinh năng đ ́ ộng sáng tạo, linh hoạt để thich ́
nghi, đáp ứng được những yêu cầu phát triển
của xã hội.
Trước những yêu cầu và thách thức đó,
Đảng và Nhà nước đã nêu rõ quan điểm phải
đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo.
Chính vì vậy, giáo dục Việt Nam cũng đã và
đang có nhiều thay đổi để hòa nhập với các
nền giáo dục hiện đại trên thế giới, đặc biệt là
vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học trong
nhà trường. Cụ thể là việc ban hành “Quy chế
đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ”, nhằm phát huy tính tích
cực chủ động của sinh viên, bồi dưỡng cho
sinh viên năng lực tự nghiên cứu tài liệu, tự ôn
tập củng cố và giải quyết các vấn đề học tập thông qua các nội dung, hoạt động dạy học.
Trong đó, tự học là yếu tố quyết định đến kết
quả học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ.
Tự học có vai trò ý nghĩa rất lớn, không chỉ
trong giáo dục nhà trường mà cả trong cuộc
sống. Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự
học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện
khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi
người, trên cơ sở đó tạo điều kiện và cơ hội
học tập suốt đời. Không những thế, tự học
còn là nhu cầu, một năng lực cần có của mọi
người trong thời đại ngày nay.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tự học cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Thái Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
39TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin cùng với quá trình hội
nhập quốc tế toàn cầu, đòi hỏi nguồn nhân
lực phải có triǹh độ học vấn cao, có kiến thức
sâu rộng, có tay nghề vững vàng. Cao hơn là
có tińh năng động sáng tạo, linh hoạt để thićh
nghi, đáp ứng được những yêu cầu phát triển
của xã hội.
Trước những yêu cầu và thách thức đó,
Đảng và Nhà nước đã nêu rõ quan điểm phải
đổi mới phương pháp giáo dục và đào tạo.
Chính vì vậy, giáo dục Việt Nam cũng đã và
đang có nhiều thay đổi để hòa nhập với các
nền giáo dục hiện đại trên thế giới, đặc biệt là
vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học trong
nhà trường. Cụ thể là việc ban hành “Quy chế
đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy
theo hệ thống tín chỉ”, nhằm phát huy tính tích
cực chủ động của sinh viên, bồi dưỡng cho
sinh viên năng lực tự nghiên cứu tài liệu, tự ôn
tập củng cố và giải quyết các vấn đề học tập
QUẢN LÝ - KINH TẾ
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO
ĐẲNG SƯ PHẠM THÁI BÌNH
Hoàng Thị Loan Thanh
Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình
Email: thanh.cdsptb@gmail.com
Tóm tắt: Bài báo trình bày nghiên cứu của tác giả về thực trạng việc tự học, những
thuận lợi và khó khăn trong quá trình tự học của sinh viên tại trường Cao đẳng Sư phạm
Thái Bình. Kết quả nghiên cứu là cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
tự học cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình.
Từ khóa: Năng lực tự học, sinh viên, Cao đẳng Sư phạm Thái Bình.
thông qua các nội dung, hoạt động dạy học.
Trong đó, tự học là yếu tố quyết định đến kết
quả học tập của sinh viên theo học chế tín chỉ.
Tự học có vai trò ý nghĩa rất lớn, không chỉ
trong giáo dục nhà trường mà cả trong cuộc
sống. Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự
học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện
khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi
người, trên cơ sở đó tạo điều kiện và cơ hội
học tập suốt đời. Không những thế, tự học
còn là nhu cầu, một năng lực cần có của mọi
người trong thời đại ngày nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng, đề
xuất các giải pháp nâng cao năng lực tự học
cho sinh viên, nhằm góp phần đáp ứng những
yêu cầu về chất lượng dạy và học trong thời
kỳ mới là điều hết sức cần thiết.
Để thực hiện nghiên cứu này chúng tôi
tiến hành điều tra, phỏng vấn 450 sinh viên
đang học tập tại trường Cao đẳng Sư phạm
Thái Bình. Từ đó, đánh giá thực trạng việc tự
học hiện nay của sinh viên đang học tập tại
40 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Trên cơ
sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao năng lực tự học cho sinh viên.
II. THỰC TRẠNG VIỆC TỰ HỌC CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
THÁI BÌNH
2.1. Hiểu biết về tự học
Qua điều tra và thống kê số liệu chúng tôi
thấy rằng:
Có 42,4% sinh viên cho rằng hoạt động
tự học là “hoạt động học tập mà không có sự
hướng dẫn của giáo viên”. Rất ít sinh viên lựa
chọn đấy là “hoạt động người học tự tìm hiểu
tri thức qua sách vở, tài liệu, các phương tiện
thông tin đại chúng” (20,0%), đặc biệt chỉ có
3,1% lựa chọn là “hoạt động của người học tự
chiếm lĩnh các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo một
cách tự giác, chủ động, tự lực và tích cực”.
Tuy nhiên, khi được hỏi “Theo bạn việc tự
học có cần thiết đối với người học không?” thì
có đến 55,3% cho rằng “Cần thiết” và chỉ có
0,7% cho rằng “Không cần thiết”. Những con
số này phần nào cho thấy, các em đã nhận
thức được tầm quan trọng của việc tự học
dù chưa hiểu sâu sắc về bản chất của hoạt
động tự học. Điều này có thể do ảnh hưởng từ
cách thức dạy học tồn tại nhiều năm qua trong
nền giáo dục nước ta. Đó là cách dạy học thụ
động, giáo viên luôn được coi là trung tâm, là
người chủ động trong việc truyền đạt tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo. Còn người học chỉ là người
thu nhận tri thức, kỹ năng, kỹ xảo từ giáo viên
một cách thụ động.
2.2. Việc xây dựng kế hoạch tự học
Để tìm hiểu việc xây dựng kế hoạch tự
học cho bản thân của sinh viên, chúng tôi đưa
ra câu hỏi “Bạn có lên kế hoạch cho việc tự
học của mình không?”, có đến 78,4% trả lời
“Không” và chỉ có 21,6% trả lời “Có”. Còn khi
tìm hiểu về việc thực hiện kế hoạch tự học đã
đề ra thì có 80,2% trả lời “Không”, 14,0% trả
lời “Chỉ thực hiện được trong thời gian đầu”
và chỉ có 5,8% trả lời “Có” thực hiện được kế
hoạch mình đã đề ra (Hình 1).
Những kết quả này phần nào cho thấy,
các em chưa thật sự có ý thức và thiếu kỷ
luật trong việc tự học. Rất ít em xây dựng cho
mình một kế hoạch tự học cụ thể và đặc biệt
số em thực hiện được theo kế hoạch đề ra
còn ít hơn nữa. Điều này một lần nữa phản
ánh tâm lý thụ động trong học tập của sinh
viên.
Hình 1. Biểu đồ thể hiện việc thực hiện
kế hoạch tự học của sinh viên
2.3. Hiểu biết về cách thức tự học
Kết quả điều tra mức độ hiểu biết về cách
thức tự học của sinh viên được thể hiện như
trong bảng 3.
Bảng 1. Hiểu biết về các cách thức tự
học của sinh viên
2
Hình 1. Biểu đồ thể hiện việc thực hiện kế hoạch tự học
của sinh viên
2.3. Hiểu biết về cách thức tự học
Kết quả điều tra mức độ hiểu biết về cách thức tự
học của sinh viên được thể hiện như trong bảng 3.
Bảng 1. Hiểu biết về các cách thức tự học của sinh viên
Cách thức tự học
Mức độ sử dụng (%)
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chưa
bao giờ
Học nhóm 26,7 60,9 12,4
Ôn lại kiến thức đã học
sau mỗi bài
38,4 43,1 18,5
Đọc bài mới trước khi
đến lớp
22,4 61,8 15,8
Trao đổi với giảng viên 1,6 20,0 78,4
Lên thư viện học 66,0 27,1 6,9
Ghi chép bài cẩn thận 69,1 16,4 14,5
Tìm nơi yên tĩnh học
bài
51,6 26,4 22,0
Sử dụng bản đồ tư duy
để học
0,0 0,4 99,6
Đọc thêm sách tham
khảo ngoài các giáo
trình và tài liệu thầy, cô
yêu cầu
8,9
65,5
25,6
Xây dựng kế hoạch học
tập trước mỗi kỳ học,
năm học
0,0 0,2 99,8
Từ những số liệu trong bảng 1 cho thấy: Cách
thức tự học mà sinh viên sử dụng thường xuyên nhất là
“Ghi chép bài cẩn thận” (69,1%), tiếp đến là “Lên thư
viện học bài” (66,0%) và “Tìm nơi yên tĩnh học bài”
(51,6%). Còn những cách thức tự học được xem là phát
huy tính tích cực trong tự học của người học thì tỷ lệ sinh
viên thường xuyên sử dụng lại rất thấp. Cụ thể, tỷ lệ lựa
chọn hình thức “Xây dựng kế hoạch học tập trước mỗi kỳ
học, năm học” và “Sử dụng bản đồ tư duy” là 0,0%;
“Đọc thêm sách tham khảo ngoài các giáo trình và tài liệu
thầy, cô yêu cầu” 8,9% và “Trao đổi với giảng viên”
1,6%. Đồng thời, cũng ở những lựa chọn này thì tỷ lệ
chưa bao giờ sử dụng lại tương đối cao, lần lượt là 99,8%;
99,6%; 25,6% và 78,4%. Điều này cho thấy các em chưa
thực sự biết cách để tự học hiệu quả.
2.4. Khó khăn gặp phải trong quá trình tự học
Khi tìm hiểu về những kho khăn thường gặp phải
trong quá trình tự học chúng tôi thấy rằng: Đa phần các
em đều lúng túng khi thấy chương trình học tại trường cao
đẳng không giống với chương trình học tại trường trung
học phổ thông (73,8%), đặc biệt tỷ lệ này khá cao ở các
sinh viên khối 1 (98,0%). Điều này là dễ hiểu và thường
gặp khi các em chuyển từ môi trường học tập ở phổ thông
sang môi trường học tập mới ở các trường chuyên nghiệp.
Ở trường chuyên nghiệp, lượng kiến thức cần học tập
nhiều, các em phải rèn luyện cách làm việc độc lập, sự
nhắc nhở của các thầy cô sẽ giảm đi. Vì vậy, các em cần
hình thành và rèn luyện cho bản thân ý thức học tập, nhất
là ý thức tự học để trau dồi tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Bên cạnh đó các yếu tố như: Internet, facebook,
điện thoại, phim ảnhcũng có ảnh hưởng lớn đến việc tự
học của các em (92,4% sinh viên trả lời “Có”). Đây là một
phần thể hiện sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin. Chúng ta đều biết những lợi ích to lớn mà
internet mang lại, theo thống kê năm 2014 Việt Nam nằm
trong top 10 nước châu Á có tốc độ tăng trưởng người
dùng Internet nhanh nhất. Xếp thứ 3 Đông Nam Á, thứ 7
châu Á và thứ 18 thế giới về số người dùng Internet. Tuy
nhiên, số người sử dụng internet, các trang mạng xã
hộiđể phục vụ cho việc học tập lại chưa nhiều. Đặc biệt
là đối với lứa tuổi học đường thì thậm chí còn có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em, làm cho
các em mất tập trung vào việc học.
Còn khi hỏi về điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường phục vụ cho việc tự học của các em thì có 99,3%
cho rằng không đáp ứng đủ. Khi chúng tôi hỏi thêm một
số em sinh viên, các em còn cho rằng một trong các
nguyên nhân khiến việc tự học của các em bị ảnh hưởng
là các em ở kí túc xá khá ồn ào nhưng giảng đường, thư
viện lại ít mở cửa buổi tối. Mặc dù, trong thời gian gần
đây cơ sở vật chất phục vụ cho việc học của sinh viên
không ngừng được cải thiện, nhưng những con số này
phần nào cho thấy cần có sự quan tâm hơn nữa đến việc
nâng cao cơ sở vật chất phục vụ cho việc tự học của sinh
viên.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THÁI BÌNH
Từ kết quả nghiên cứu và đánh giá thực trạng việc
tự học của sinh viên một cách khách quan, chúng tôi đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực
tự học cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái
Bình. Cụ thể như sau:
Thứ nhất là vai trò của đội ngũ giảng viên trong
quá trình dạy học, giảng viên là đội ngũ có vai trò rất lớn
trong việc định hướng và khơi dậy ý thức tự học cho sinh
viên. Vì thế, giảng viên vừa có nhiệm vụ quan trọng trong
những giờ lên lớp, nhưng đồng thời cũng đóng vai trò
quan trọng trong những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh
2
Hình 1. Biểu đồ thể hiện việc thực hiện kế hoạch tự học
của sinh viên
2.3. Hiểu biết về cách thức tự học
Kết quả điều tra mức độ hiểu biết về cách thức tự
học của sinh viên được thể hiện như trong bảng 3.
Bảng 1. Hiểu biết về các cách thức tự học của sinh viên
Cách thức tự học
Mức độ sử dụng (%)
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chưa
bao giờ
Học nhóm 26,7 60,9 12,4
Ôn lại kiến thức đã học
sau mỗi bài
38,4 43,1 18,5
Đọc bài mới trước khi
đến lớp
22,4 61,8 15,8
Trao đổi với giảng viên 1,6 20,0 78,4
Lên thư viện học 66,0 27,1 6,9
Ghi chép bài cẩn thận 69,1 16,4 14,5
Tìm nơi yên tĩnh học
bài
51,6 26,4 22,0
Sử dụng bản đồ tư duy
để học
0,0 0,4 99,6
Đọc thêm sách tham
khảo ngoài các giáo
trình và tài liệu thầy, cô
yêu cầu
8,9
65,5
25,6
Xây dựng kế hoạch học
tập trước mỗi kỳ học,
năm học
0,0 0,2 99,8
Từ những số liệu trong bảng 1 cho thấy: Cách
thức tự học mà sinh viên sử dụng thường xuyên nhất là
“Ghi chép bài cẩn thận” (69,1%), tiếp đến là “Lên thư
viện học bài” (66,0%) và “Tìm nơi yên tĩnh học bài”
(51,6%). Còn những cách thức tự học được xem là phát
huy tính tích cực trong tự học của người học thì tỷ lệ sinh
viên thường xuyên sử dụng lại rất thấp. Cụ thể, tỷ lệ lựa
chọn hình thức “Xây dựng kế hoạch học tập trước mỗi kỳ
học, năm học” và “Sử dụng bản đồ tư duy” là 0,0%;
“Đọc thêm sách tham khảo ngoài các giáo trình và tài liệu
thầy, cô yêu cầu” 8,9% và “Trao đổi với giảng viên”
1,6%. Đồng thời, cũng ở những lựa chọn này thì tỷ lệ
chưa bao giờ sử dụng lại tương đối cao, lần lượt là 99,8%;
99,6%; 25,6% và 78,4%. Điều này cho thấy các em chưa
thực sự biết cách để tự học hiệu quả.
2.4. Khó khăn gặp phải trong quá trình tự học
Khi tìm hiểu về những kho khăn thường gặp phải
trong quá trình tự học chúng tôi thấy rằng: Đa phần các
em đều lúng tú khi thấy chươ g trình học tại trường cao
đẳng không giống với chương trình học tại trường trung
học phổ thông (73,8%), đặc biệt tỷ lệ này khá cao ở các
sinh viên khối 1 (98,0%). Điều này là dễ hiểu và thường
gặp khi các em chuyển từ môi trường học tập ở phổ thông
sang môi trường học tập mới ở các trường chuyên nghiệp.
Ở trường chuyên nghiệp, lượng kiến thức cần học tập
nhiều, các em phải rèn luyện cách làm việc độc lập, sự
nhắc nhở của các thầy cô sẽ giảm đi. Vì vậy, các em cần
hình thành và rèn luyện cho bản thân ý thức học tập, nhất
là ý thức tự học để trau dồi tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Bê cạnh đó các yếu tố như: Internet, facebook,
điện thoại, phim ảnhcũng có ảnh hưởng lớn đến việc tự
học của các em (92,4% sinh viên trả lời “Có”). Đây là một
phần thể hiện sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin. Chúng ta đều biết những lợi ích to lớn mà
internet mang lại, theo thống kê năm 2014 Việt Nam nằm
trong top 10 nước châu Á có tốc độ tăng trưởng người
dùng Internet nhanh nhất. Xếp thứ 3 Đông Nam Á, thứ 7
châu Á và thứ 18 thế giới về số người dùng Internet. Tuy
nhiên, số người sử dụng internet, các trang mạng xã
hộiđể phục vụ cho việc học tập lại chưa nhiều. Đặc biệt
là đối với lứa tuổi học đường thì thậm chí còn có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em, làm cho
các em mất tập trung ào việc học.
Còn khi hỏi về điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường phục vụ cho việc tự học của các em thì có 99,3%
cho rằng không đáp ứng đủ. Khi chúng tôi hỏi thêm một
số em sinh viên, các em còn cho rằng một trong các
nguyên nhân khiến việc tự học của các em bị ảnh hưởng
là các em ở kí túc xá khá ồn ào nhưng giảng đường, thư
viện lại ít mở cửa buổi tối. Mặc dù, trong thời gian gần
đây cơ sở vật chất phục vụ cho việc học của sinh viên
không ngừng được cải thiện, nhưng những con số này
phần nào cho thấy cần c sự qua tâm hơn ữa đến việc
nâng cao cơ sở vật chất phục vụ cho việc tự học của sinh
viên.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THÁI BÌNH
Từ kết quả nghiên cứu và đánh giá thực trạng việc
tự học của sinh viên một cách khách quan, chúng tôi đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực
tự học cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái
Bình. Cụ thể như sau:
Thứ nhất là vai trò của đội ngũ giảng viên trong
quá trình dạy học, giảng viên là đội ngũ có vai trò rất lớn
trong việc định hướng và khơi dậy ý thức tự học cho sinh
viên. Vì thế, giảng viên vừa có nhiệm vụ quan trọng trong
những giờ lên lớp, nhưng đồng thời cũng đóng vai trò
quan trọng trong những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh
41TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
2
Hình 1. Biểu đồ thể hiện việc thực hiện kế hoạch tự học
của sinh viên
2.3. Hiểu biết về cách thức tự học
Kết quả điều tra mức độ hiểu biết về cách thức tự
học của sinh viên được thể hiện như trong bảng 3.
Bảng 1. Hiểu biết về các cách thức tự học của sinh viên
Cách thức tự học
Mức độ sử dụng (%)
Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng
Chưa
bao giờ
Học nhóm 26,7 60,9 12,4
Ôn lại kiến thức đã học
sau mỗi bài
38,4 43,1 18,5
Đọc bài mới trước khi
đến lớp
22,4 61,8 15,8
Trao đổi với giảng viên 1,6 20,0 78,4
Lên thư viện học 66,0 27,1 6,9
Ghi chép bài cẩn thận 69,1 16,4 14,5
Tìm nơi yên tĩnh học
bài
51,6 26,4 22,0
Sử dụng bản đồ tư duy
để học
0,0 0,4 99,6
Đọc thêm sách tham
khảo ngoài các giáo
trình và tài liệu thầy, cô
yêu cầu
8,9
65,5
25,6
Xây dựng kế hoạch học
tập trước mỗi kỳ học,
năm học
0,0 0,2 99,8
Từ những số liệu trong bảng 1 cho thấy: Cách
thức tự học mà sinh viên sử dụng thường xuyên nhất là
“Ghi chép bài cẩn thận” (69,1%), tiếp đến là “Lên thư
viện học bài” (66,0%) và “Tìm nơi yên tĩnh học bài”
(51,6%). Còn những cách thức tự học được xem là phát
huy tính tích cực trong tự học của người học thì tỷ lệ sinh
viên thường xuyên sử dụng lại rất thấp. Cụ thể, tỷ lệ lựa
chọn hình thức “Xây dựng kế hoạch học tập trước mỗi kỳ
học, năm học” và “Sử dụng bản đồ tư duy” là 0,0%;
“Đọc thêm sách tham khảo ngoài các giáo trình và tài liệu
thầy, cô yêu cầu” 8,9% và “Trao đổi với giảng viên”
1,6%. Đồng thời, cũng ở những lựa chọn này thì tỷ lệ
chưa bao giờ sử dụng lại tương đối cao, lần lượt là 99,8%;
99,6%; 25,6% và 78,4%. Điều này cho thấy các em chưa
thực sự biết cách để tự học hiệu quả.
2.4. Khó khăn gặp phải trong quá trình tự học
Khi tìm hiểu về những kho khăn thường gặp phải
trong quá trình tự học chúng tôi thấy rằng: Đa phần các
em đều lúng túng khi thấy chương trình học tại trường cao
đẳng không giống với chương trình học tại trường trung
học phổ thông (73,8%), đặc biệt tỷ lệ này khá cao ở các
sinh viên khối 1 (98,0%). Điều này là dễ hiểu và thường
gặp khi các em chuyển từ môi trường học tập ở phổ thông
sang môi trường học tập mới ở các trường chuyên nghiệp.
Ở trường chuyên nghiệp, lượng kiến thức cần học tập
nhiều, các em phải rèn luyện cách làm việc độc lập, sự
nhắc nhở của các thầy cô sẽ giảm đi. Vì vậy, các em cần
hình thành và rèn luyện cho bản thân ý thức học tập, nhất
là ý thức tự học để trau dồi tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Bên cạnh đó các yếu tố như: Internet, facebook,
điện thoại, phim ảnhcũng có ảnh hưởng lớn đến việc tự
học của các em (92,4% sinh viên trả lời “Có”). Đây là một
phần thể hiện sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin. Chúng ta đều biết những lợi ích to lớn mà
internet mang lại, theo thống kê năm 2014 Việt Nam nằm
trong top 10 nước châu Á có tốc độ tăng trưởng người
dùng Internet nhanh nhất. Xếp thứ 3 Đông Nam Á, thứ 7
châu Á và thứ 18 thế giới về số người dùng Internet. Tuy
nhiên, số người sử dụng internet, các trang mạng xã
hộiđể phục vụ cho việc học tập lại chưa nhiều. Đặc biệt
là đối với lứa tuổi học đường thì thậm chí còn có ảnh
hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em, làm cho
các em mất tập trung vào việc học.
Còn khi hỏi về điều kiện cơ sở vật chất của nhà
trường phục vụ cho việc tự học của các em thì có 99,3%
cho rằng không đáp ứng đủ. Khi chúng tôi hỏi thêm một
số em sinh viên, các em còn cho rằng một trong các
nguyên nhân khiến việc tự học của các em bị ảnh hưởng
là các em ở kí túc xá khá ồn ào nhưng giảng đường, thư
viện lại ít mở cửa buổi tối. Mặc dù, trong thời gian gần
đây cơ sở vật chất phục vụ cho việc học của sinh viên
không ngừng được cải thiện, nhưng những con số này
phần nào cho thấy cần có sự quan tâm hơn nữa đến việc
nâng cao cơ sở vật chất phục vụ cho việc tự học của sinh
viên.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO
NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THÁI BÌNH
Từ kết quả nghiên cứu và đánh giá thực trạng việc
tự học của sinh viên một cách khách quan, chúng tôi đề
xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực
tự học cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Thái
Bình. Cụ thể như sau:
Thứ nhất là vai trò của đội ngũ giảng viên trong
quá trình dạy học, giảng viên là đội ngũ có vai trò rất lớn
trong việc định hướng và khơi dậy ý thức tự học cho sinh
viên. Vì thế, giảng viên vừa có nhiệm vụ quan trọng trong
những giờ lên lớp, nhưng đồng thời cũng đóng vai trò
quan trọng trong những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh
Từ những số liệu trong bảng 1 cho thấy:
Cách thức tự học mà sinh viên sử dụng thường
xuyên nhất là “Ghi chép bài cẩn thận” (69,1%),
tiếp đến là “Lê thư viện học bài” (66,0%) và
“Tìm ơi yên tĩnh học bài” (51,6%). Còn những
cách thức tự học được xem