Tóm tắt:
Bài viết trình bày bản chất của “Quan điểm sư phạm tương tác” và ý nghĩa của nó trong dạy học.
Đồng thời trên cơ sở đánh giá những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn dạy học môn Tâm lí học nghề nghiệp
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp vận dụng
quan điểm sư phạm tương tác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học bộ môn trong chương trình
đào tạo giáo viên kỹ thuật của Nhà trường.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn Tâm lí học nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology116 Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM SƯ PHẠM TƯƠNG TÁC
TRONG DẠY HỌC MÔN TÂM LÍ HỌC NGHỀ NGHIỆP
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN
Trần Mai Duyên, Nguyễn Thị Liễu, Lê Ngọc Phương
Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 10/07/2017
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 20/08/2017
Ngày bài báo được duyệt đăng: 06/09/2017
Tóm tắt:
Bài viết trình bày bản chất của “Quan điểm sư phạm tương tác” và ý nghĩa của nó trong dạy học.
Đồng thời trên cơ sở đánh giá những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn dạy học môn Tâm lí học nghề nghiệp
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp vận dụng
quan điểm sư phạm tương tác nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học bộ môn trong chương trình
đào tạo giáo viên kỹ thuật của Nhà trường.
Từ khóa: Sư phạm tương tác; Tâm lí học nghề nghiệp.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy học là một quá trình bao gồm nhiều
thành tố cấu trúc, sự tương tác của các thành tố
trong dạy học tạo nên sự vận động của quá trình
dạy học theo mục tiêu xác định. Nghiên cứu về các
thành tố, vai trò và mối quan hệ qua lại giữa các
thành tố dạy học nhằm thúc đẩy sự vận động hiệu
quả của các thành tố để nâng cao chất lượng dạy
học được các nhà giáo dục quan tâm từ rất sớm
trong lịch sử phát triển giáo dục nhân loại.
Sư phạm tương tác (SPTT) là một cách nhìn
mới về hoạt động dạy và hoạt động học. Đó là sự
thiết lập một cấu trúc tư duy - sự phối hợp như thế
nào giữa người dạy, người học và môi trường để
người học đạt được kiến thức trên nền tảng vững
chắc, có tính khoa học và mang tính tự nhiên.
Cả ba yếu tố người học, người dạy, môi
trường tác động lẫn nhau, xâm nhập vào nhau.
Trong đó, người học được coi là tác nhân chính của
việc học. Người học trước hết là người đi học chứ
không phải là người mà nhà sư phạm sẽ dạy bảo.
Người dạy đóng vai trò là người hướng dẫn, người
điểu khiển, định hướng hoạt động dạy tùy theo đối
tượng là người học. Còn môi trường luôn ở trạng
thái động, luôn có xu hướng biến đổi và tác động
nhiều phía đến người dạy và người học [12]. Xét ở
góc độ nào đó, sự tương tác giữa ba thành tố người
học - người dạy - môi trường phải được nhìn nhận
như một nguyên tắc then chốt của quá trình dạy học
hiện đại. Sự tương tác giữa ba thành tố này sẽ làm
tăng tính tích cực, chủ động của cả người dạy và
người học trong sự biến đổi liên tục của yếu tố môi
trường.
1. Quan điểm sư phạm tương tác
SPTT chính là một cách tiếp cận xoay quanh
vai trò người học, người dạy và môi trường. Nó
thuộc về tư duy của chúng ta như một cách xử sự,
những cách xử sự sẽ giúp người giáo viên lựa chọn
những phương pháp thích hợp đối với người học và
với tác động của môi trường.
Như vậy, SPTT là cách tiếp cận hoạt động
dạy học, đặc biệt nhấn mạnh các mối quan hệ qua
lại giữa ba nhân tố người học, người dạy và môi
trường trong hoạt động sư phạm.
Cấu trúc của hoạt động SPTT là xem xét cơ
chế tương tác trong mối quan hệ tam giác: Người
học - Người dạy - Môi trường. Các yếu tố này tác
động qua lại với nhau, tương tác và hỗ trợ nhau
nhằm đạt mục đích học tập đề ra.
Trong quá trình dạy học, sự tương tác giữa
các yếu tố tạo nên sự vận động, phát triển của quá
trình đó, quy định chất lượng, hiệu quả dạy học.
Theo quan điểm SPTT, hoạt động dạy học dựa trên
mối quan hệ tương tác của ba yếu tố cơ bản là người
dạy - người học - môi trường. Có thể biểu diễn mối
quan hệ tương tác giữa ba yếu tố này bằng sơ đồ
như sau:
Người học
Người dạy Môi trường
Hình 1.1. Mối quan hệ của 3 yếu tố cơ bản trong dạy
học theo quan điểm sư phạm tương tác [19, tr22]
Qua sơ đồ chúng ta nhận thấy, các dạng
tương tác sư phạm trong thực tế dạy học gồm có:
tương tác người dạy - người học, tương tác người
học - môi trường, tương tác người dạy - người học
- môi trường.
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017 Journal of Science and Technology 117
2. Vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong
dạy học môn Tâm lí học nghề nghiệp
Để vận dụng quan điểm SPTT trong dạy học
môn Tâm lí học nghề nghiệp (TLHNN) ở trường
Đại học Sư phạm kỹ thuật (ĐHSPKT) Hưng Yên
một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học, đòi hỏi phải có sự phù hợp, tương đồng
giữa quan điểm SPTT và dạy học môn này trong
Nhà trường hiện nay với những điều kiện cần thiết.
Chúng tôi nhận thấy việc vận dụng quan điểm
SPTT trong môn TLHNN mang lại những yếu tố
tích cực sau:
- Vận dụng quan điểm SPTT trong dạy học
môn TLHNN ở Trường ĐHSPKT Hưng Yên sẽđáp
ứng được mục tiêu dạy học môn học: Mục tiêu dạy
học môn TLHNN ở Trường ĐHSPKT Hưng Yên
không chỉ nâng cao nhận thức nghề, kĩ năng nghề
mà còn hình thành thái độ, phẩm chất, định hướng
các giá trị nghề nghiệp cho SV SPKT. Vì vậy, tiếp
cận quan điểm SPTT trong dạy học môn TLHNN,
SV sẽ có nhiều điều kiện phát triển nhiều kĩ năng
và giá trị nghề nghiệp trong môi trường học tập đa
tương tác, đáp ứng mục tiêu dạy học môn TLHNN.
- Vận dụng quan điểm SPTT trong dạy học
môn TLHNN sẽ tích cực hóa hoạt động học của SV:
Quan điểm SPTT đặc biệt chú trọng tới hoạt động
của người học. Vận dụng quan điểm SPTT trong
dạy học môn TLHNN sẽ giúp SV chủ động, tích
cực hơn khi tham gia vào quá trình học trong môi
trường học tập thuận lợi, có nhiều cơ hội thể hiện
bản thân qua hoạt động, giao tiếp, phát huy được
tiềm năng, sự sáng tạo của các em, đồng thời phát
triểnkĩ năng xã hội, nghề nghiệp, mang lại hiệu quả
học tập cao đáp ứng mục tiêu dạy học môn TLHNN.
- Vận dụng quan điểm SPTT trong dạy học
môn TLHNN sẽ khuyến khích lao động sáng tạo
của giảng viên (GV): Tiếp cận quan điểm SPTT sẽ
giúp cho GV dạy TLHNN có cái nhìn toàn diện,
năng động và sáng tạo hơn, không bỏ qua bất kì
yếu tố có lợi nào trong việc thiết kế, tổ chức hoạt
động dạy học thúc đẩy tính tích cực, sự hứng thú
học tập của SV, mang lại sự thành công nhiều nhất
cho người học, đáp ứng mục tiêu dạy học môn học.
Chẳng hạn, GV luôn phải tìm tòi, thiết kế các tình
huống dạy học, các dự án, các nhiệm vụ học tập
của cá nhân, nhóm, lớp SV sao cho hấp dẫn, lôi
cuốn, tạo ra sự hứng thú, tham gia tích cực của SV
trong quá trình học tập; luôn xuất hiện đúng lúc khi
SV cần; luôn có những quyết định thông minh làm
“hài lòng” người học. Do vậy việc ứng dụng quan
điểm SPTT trong dạy học môn TLHNN ở Trường
ĐHSPKT Hưng Yên sẽ được các GV nhanh chóng
đón nhận và vận dụng hiệu quả.
Như vậy, khả năng vận dụng quan điểm
SPTT vào dạy học môn TLHNN rất cao. Tuy nhiên,
nếu muốn vận dụng có hiệu quả thì cần phải có đủ
những điều kiện có liên quan trực tiếp đến ba nhân
tố người học, người dạy, môi trường mà quan điểm
này đã xác định.
3. Thực trạng hoạt động học tập môn Tâm lí học
nghề nghiệp xét theo quan điểm sư phạm tương tác
a. Hứng thú của SV với việc học môn TLHNN
Hứng thú với môn học sẽ giúp SV học hăng
say hơn, sáng tạo hơn và hiệu quả học tập vì thế sẽ
tốt hơn. Qua điều tra, khảo sát hứng thú của SV với
việc học môn TLHNN chúng tôi thu được kết quả
sau:
Hình 3.1. Hứng thú của SV với việc học môn TLHNN
Như vậy, phần lớn SV chưa có hứng thú với
việc học môn TLHNN: 4,8% SV lựa chọn mức độ ít
hứng thú và 9,5% không hứng thú; 47,6% SV cảm
thấy môn học này là bình thường. Lí do chủ yếu
mà SV đưa ra là GV chưa có cách thức tổ chức giờ
học hiệu quả nhất, chưa tạo được không khí sôi nổi
trong lớp học.
b. Biểu hiện của SV khi học môn TLHNN
Qua điều tra, khảo sát cũng cho thấy: Phần
lớn SV (71%) không tập trung chú ý vào giờ học;
Hoặc có tới 61,9% SV không hợp tác với các bạn
trong nhóm;Hay còn có 38% SV không bao giờ trao
đổi với GV về những vấn đề chưa hiểu. Điều này có
nghĩa là SV vẫn chưa thực sự tích cực học tập môn
TLHNN, có thể vì nhiều nguyên nhân như vấn đề
trao đổi chưa thực sự hấp dẫn, hoặc việc tổ chức dạy
học chưa tạo được sự tương tác tích cực giữa người
dạy – người học – môi trường.
Bảng 3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập
môn TLHNN của SV
STT Các yếu tố ảnh
hưởng
Số
lượng
Tỉ lệ
%
Thứ
bậc
1 Nguồn học liệu
phong phú đa dạng
16 76 3
2 Phòng học tốt (sạch
sẽ, thoáng mát, yên
tĩnh)
13 61 5
3 Đầy đủ đồ dùng,
phương tiện học tập
15 71 4
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology118 Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017
4 Mối quan hệ giữa
các thành viên trong
lớp gắn bó, cởi mở,
chan ḥòa
17 81 2
5 Mối quan hệ thầy trò
gần gũi, thân thiện
18 86 1
Số liệu ở bảng 3.1 cho thấy: Hầu hết SV
được điều tra cho rằng kết quả học tập của các em
phụ thuộc chủ yếu vào mối quan hệ tương tác giữa
thầy - trò và trò - trò. Các yếu tố đó lần lượt xếp
thứ 1 (86% ý kiến) và thứ 2 (81% ý kiến). Các yếu
tố khác như đảm bảo đầy đủ đồ dùng, phương tiện
học tập, nguồn học liệu phong phú đa dạng, phòng
học tốt (sạch sẽ, thoáng mát, yên tĩnh) dù không
phải là yếu tố ảnh hưởng chính nhưng cũng có ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của các em.
Điều này cho thấy kết quả học tập môn TLHNN
của SV không được tốt phần nhiều phải xem xét từ
các mối quan hệ tương tác giữa thầy - trò, trò - trò,
ngoài ra cũng cần phải xem xét đến việc trang bị các
đồ dùng, thiết bị và cải thiện các điều kiện học tập.
Nếu điều chỉnh và có biện pháp cải thiện mối quan
hệ thầy - trò, trò - trò, tạo được môi trường thuận lợi
thì kết quả học tập của SV trong môn TLHNN sẽ
được cải thiện.
c. Các biện pháp, kĩ thuật dạy học môn TLHNN
Các biện pháp, kĩ thuật được đa số GV sử
dụng để gia tăng mối quan hệ tương tác và nâng cao
hiệu quả dạy học là: Có thái độ cởi mở thân thiện,
gần gũi với sinh viên; kích thích tính tự tin của sinh
viên chiếm 100%; gần gũi với SV, tổ chức hướng
dẫn SV tự học (80%). Một số biện pháp, kĩ thuật
GV ít sử dụng đó là: Tiến hành kiểm tra, đánh giá
thường xuyên kết quả học tập, có sự tham gia của
SV (40%); sử dụng phương tiện, kĩ thuật dạy học
hiện đại (40%).
Như vậy, mặc dù GV đã có những định
hướng cho hoạt động học tập của SV, tạo được
môi trường nhận thức có tính vấn đề cao kết hợp
với các phương pháp kích thích SV tự tin tham gia
tích cực vào quá trình dạy học song GV còn rất ít
chú ý đến việc sử dụng các phương tiện, kĩ thuật
dạy học hiện đại; chuẩn bị nguồn học liệu, phương
tiện học tập, nhất là kiểm tra, đánh giá kết quả của
người học. Do đó, muốn nâng cao chất lượng, hiệu
quả của quá trình dạy học mônTLHNN tại trường
Đại học SPKT Hưng Yên cần phải tăng cường vận
dụng những biện pháp, kĩ thuật để tạo ra môi trường
học tập mang tính tương tác, tăng tính tích cực, chủ
động của người học dưới sự tổ chức, hướng dẫn chủ
động, sáng tạo của GV.
4. Giải pháp vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn Tâm lí học nghề nghiệp tại
trường ĐHSPKT Hưng Yên
Hình 4.1. Giải pháp vận dụng quan điểm SPTT trong dạy học môn TLHNN
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017 Journal of Science and Technology 119
Theo quan điểm SPTT, tổ chức dạy học là
việc thực hiện một hệ thống các giải pháp thiết lập
các mối quan hệ tương tác tích cực đa chiều giữa
các yếu tố dạy học nhằm thúc đẩy tính tích cực học
tập của người học, trên cơ sở đó thực hiện tốt các
nhiệm vụ dạy học. Vì vậy, các giải pháp vận dụng
quan điểm SPTT trong dạy học môn TLHNN được
đề xuất phải tác động đồng bộ tới các yếu tố dạy
học môn TLHNN nhất là ba yếu tố người dạy, người
học, môi trường. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
đề xuất các giải pháp sau:
- Giải pháp 1: Sử dụng hiệu quả các phương
pháp, phương tiện, kĩ thuật dạy học phát huy tính
tích cực của người học và tính tương tác giữa các
thành tố của quá trình dạy học.
- Giải pháp 2: Mở rộng môi trường học tập
theo quan điểm SPTT.
- Giải pháp 3: Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết
quả học tập môn TLHNN theo quan điểm SPTT.
KẾT LUẬN:
1. SPTT là cách tiếp cận hoạt động dạy học,
đặc biệt nhấn mạnh các mối quan hệ qua lại giữa ba
nhân tố người học, người dạy và môi trường trong
hoạt động sư phạm. Hoạt động SPTT mang lại
những ưu điểm vượt trội: Giúp người học đạt được
các năng lực vận hành bộ máy học của họ, phát huy
tính sáng tạo, óc sáng kiến, sự tự chủ của mình qua
liên tưởng; giúp hình thành ở họ năng lực tự chịu
trách nhiệm và tự học; giúp chúng ta hiểu được cách
học của người học, cách dạy của người dạy và ảnh
hưởng của môi trường đến hoạt động dạy học.
2. TLHNN là môn khoa học mang tính đặc
thù của các trường ĐHSPKT, trang bị kiến thức, kĩ
năng, thái độ, đặt nền móng cho quá trình phát triển
năng lực, phẩm chất nghề nghiệp cho người giáo
viên tương lai, đáp ứng yêu cầu của nền giáo dục
trong xã hội hiện đại. Thực tế dạy học môn TLHNN
tại Trường ĐHSPKT Hưng Yên đã có nhiều đổi
mới song kết quả nghiên cứu cho thấy: SV chưa có
hứng thú với môn học, tính tích cực, kết quả học tập
của SV trong các giờ học môn TLHNN chưa cao
Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức, động cơ học tập
của SV chưa thật sâu sắc, mạnh mẽ, GV chưa tạo
được môi trường học tập thuận lợi thúc đẩy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo, sự hứng thú học tập của các
em Vì vậy, cần phải có các giải pháp tổ chức dạy
học môn TLHNN mang tính đồng bộ, hiệu quả và
khả thi tác động đến GV, SV và môi trường dạy học
góp phần nâng cao kết quả học tập của SV.
3. Từ những nghiên cứu về mặt lí luận và
thực tiễn trên đây, chúng tôi tiến hành xây dựng 3
giải pháp vận dụng quan điểm SPTT trong dạy học
môn TLHNN ở Trường ĐHSPKT Hưng Yên nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả môn học. Trong mỗi
giải pháp, chúng tôi đề xuất các biện pháp cụ thể và
nêu rõ mục tiêu, nội dung, cách thức, điều kiện thực
hiện cho từng biện pháp.
4. Để kiểm tra tính hiệu quả, khả thi của
các giải pháp, chúng tôi đã tiến hành tổ chức thực
nghiệm thông qua tổ chức giảng dạy môn TLHNN
(chương 3: Các thuộc tính tâm lí của nhân cách)
cho SV SPKT của Trường ĐHSPKT Hưng Yên.
Kết quả phân tích cho thấy: Việc vận dụng quan
điểm SPTT vào giảng dạy môn TLHNN là phù hợp
với đặc điểm hoạt động học tập của SV SPKT, phù
hợp với đặc thù môn học và điều kiện thực tế của
Trường ĐHSPKT Hưng Yên, phát huy được tính
tích cực của các yếu tố người dạy, người học và
môi trường dạy học. GV đã nâng cao được năng lực
nghiên cứu người học, việc học để lập kế hoạch dạy
học; kĩ năng thiết kế các hoạt động dạy học và các
hoạt động giáo dục; năng lực lãnh đạo và tổ chức
các tương tác sư phạm được hoàn thiện hơn. SV
SPKT thể hiện được tính chủ động, tích cực, năng
động, sáng tạo hơn khi tham gia vào quá trình học
tập và các mối quan hệ tương tác với người dạy, môi
trường và bạn học, kết quả học tập môn TLHNN
được nâng cao. Yếu tố môi trường tự nhiên và môi
trường tâm lí tác động đến người học theo chiều
hướng tích cực hơn.
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ giáo dục và Đào tạo (2013), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo.
[2]. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 (2011).
[3]. Nguyễn Thị Thanh Hằng (2010), Tổ chức dạy học theo quan điểm sư phạm tương tác trong nhà
trường tiểu học, Luận án Tiến sĩ, Hà Hội.
[4]. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2006), Biện pháp hoàn thiện kĩ năng tự học cho SV ĐHSP theo quan
điểm sư phạm tương tác, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội
[5]. Vũ Lệ Hoa (2008), Biện pháp vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn giáo
dục học ở các trường đại học sư phạm, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
[6]. Phó Đức Hoà, Ngô Quang Sơn (2008), Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tích cực,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology120 Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017
[7]. Phó Đức Hoà (2011), Dạy học tích cực và cách tiếp cận trong dạy học tiểu học, NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
[8]. Phó Đức Hoà, Ngô Quang Sơn (2011), Phương pháp và công nghệ dạy học trong môi trường sư
phạm tương tác, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[13]. Lê Văn Hồng (chủ biên), Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2001), Tâm lí học lứa tuổi và tâm
lí học sư phạm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[9]. Đặng Thành Hưng (2002), Dạy học hiện đại - Lí luận, biện pháp, kĩ thuật, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
[10]. Đặng Thành Hưng (2005), Tương tác thầy - trò trên lớp học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[11]. Nguyễn Văn Lê (1998), Nghề thầy giáo, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[12]. Jean - Marc Denommé & Madeleine Roy (2000), Tiến tới một phương pháp sư phạm tương
tác, NXB Thanh niên, Hà Nội.
[13]. Wilbert J. Mckeachie (2002), Những thủ thuật dạy học, Đại học Sư phạm Hà Nội.
[14]. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, NXB Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
[15]. Phan Trọng Ngọ (Chủ biên) - Nguyễn Đức Hưởng (2003), Các lí thuyết phát triển tâm lí người,
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội
[16]. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
[17]. Khoa Sư phạm (2006), Tài liệu bồi dưỡng chuyên đề “Sư phạm tương tác”, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
[18]. Khoa Sư phạm Kĩ thuật (2015), Đề cương bài giảng Tâm lí học Nghề nghiệp, Đại học SPKT
Hưng Yên;
[19]. Phạm Quang Tiệp (2013), Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo giáo viên tiểu học trình độ
đại học, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
APPLYING THE VIEWPOINT OF INTERACTIVE PEDAGOGY
INTO TEACHING THE OCCUPATIONAL PSYCHOLOGY SUBJECT
FOR STUDENTS AT HUNG YEN UNIVERSITY OF TECHNOLOGY AND EDUCATION
Abstract:
This paper describes the nature of “viewpoints of interactive pedagogy” and its implications for
a teaching process. Simultaneously, the authors suggest solutions to realize the viewpoints on the basis
of evaluating the shortcomings and limitations in the practice of teaching occupational psychology while
teaching students at Hung Yen University of Technical Education. Therefore, these viewpoints are aimed at
improving the quality and effectiveness to teach subjects of technical teachers’ curriculum at the university.
Keywords: interactive pedagogy; occupational psychology.