Cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam: Những thành tựu và thách thức

- Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội của một quốc gia; - Cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp lý, hoặc tài chính công v.v.

doc32 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 26370 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam: Những thành tựu và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu hỏi: 1.Cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam? Những thành tựu và thách thức? 2.Anh chị có giải pháp gì trong việc giải quyết Vinashin? MỤC LỤC Bài làm Câu 1: Cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam? Những thành tựu và thách thức? 1. Khái niệm cải cách hành chính Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền; - Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội của một quốc gia; - Cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế pháp lý, hoặc tài chính công v.v... Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính thức định nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản quan trọng của Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết TW 8 - khoá VII, Nghị quyết Đại hội VIII v.v... đã nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước. Đồng thời, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -2010 của Chính phủ được ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã nêu 4 nội dung cơ bản của cải cách hành chính Việt Nam, đó là cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Mục tiêu của cải cách hành chính nhà nước đến 2010 theo Chương trình tổng thể là “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.” 2. Bối cảnh tiến hành cải cách hành chính nhà nước: 2.1. Trên thế giới: Vào cuối thập kỷ 80 và đầu thạp kỷ 90 của thế kỷ XX , trên thế giới và khu vực có những biến đổi mạnh mẽ, nhanh chóng và sâu sắc. Đó là sự thay đổi trật tự thế giới theo hướng đa cực, đa trung tâm sau khi kết thúc trật tự hai cực đối đầu của thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô trước đây. Không gian chính trị thời kỳ hậu Xô Viết với tác động của toàn cầu hóa như một xu thế tất yếu và phổ biến đã làm nổi bật một đặc điểm mới của thế giới hiện nay là hòa bình, hợp tác và phát triển. Các quốc gia dân tộc cùng tồn tại và phát triển trong thế tùy thuộc và phụ thuộc lẫn nhau. Trong thế giới như thế, không một quốc gia dân tộc nào có thể tồn tại và phát triển được trong trạng thái ốc đảo, khép kín, biệt lập. Rõ ràng, sự phát triển ngày nay không thể đơn tuyến và là đa dạng hóa, đa phương hóa, là phát triển của thống nhất trong đa dạng, thống nhất của những khác biệt. Sự khác biệt của ý thức hệ và thể chế chính trị đã không còn là trở ngại không thể vượt qua trong phát triển. 2.2. Trong nước: Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng KT-XH trầm trọng. Khi đó, sản xuất đình đốn, các nhà máy, xí nghiệp thuộc khu vực sở hữu nhà nước, thuộc thành phần kinh tế quốc doanh làm ăn không có hiệu quả, luôn ở trong tình trạng “lãi giả lỗ thật”, trì trệ, gần như phá sản. Nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, với phương thức quản lý hành chính-mệnh lệnh, bao cấp và bình quân đã tỏ ra không có sức sống vì thiếu động lực nội tại để phát triển. Công nhân và lao động không có việc làm và thu nhập không đủ sống bởi lạm phát ra tăng 3 con số ( 776,4% ) với tốc độ phi mã. Tệ nạn và tiêu cực xã hội phát sinh ngày càng nhiều, xã hội có nguy cơ mất ổn định, các tầng lớp nhân dân nao núng và suy giảm niềm tin đối với Đảng và Nhà nước. Chính sách bao vay, cấm vận của Mỹ và các thế lực thù địch đã làm cho kinh tế Việt Nam gặp phải những khó khăn gay gắt, nhất là trong thời điểm xảy ra những biến động chính trị làm đổ vỡ thể chế XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Để thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và lạm phát lúc đó, Việt Nam đã tiến hành đổi mới, thay đổi quan niệm, mô hình, chính sách và cơ chế quản lý, chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế, tuân theo quy luật giá trị, thị trường, chú trọng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, điều chỉnh quan hệ sản xuất và các hình thức sở hữu. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường, tất yếu nảy sinh yêu cầu ngày càng cao của dân chủ và tự do hóa kinh tế, từ đó phải tách bạch quyền tự do, dân chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp và doanh nhân trong sản xuất, kinh doanh với quyền quản lý hành chính của Nhà nước theo luật pháp đối với các doanh nghiệp, doanh nhân, đối với hoạt động sản xuất, khắc phục tình trạng can thiệp quá sâu của nhà nước vào kinh tế. Luật pháp thừa nhận và tôn trọng quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế. Và cùng với đổi mới kinh tế, phát triển mạnh mẽ thị trường, Việt Nam đứng trước đòi hỏi phải đẩy mạnh đổi mới chính trị, cụ thể là đổi mới hệ thống chính trị, cải cách nền hành chính quốc gia, sửa đổi những luật hiện hành và xây dựng một số đạo luật mới phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của luật pháp quốc tế. 3. Quan điểm của Đảng về CCHC: Năm 1986, Nghị quyết Đại hội Đảng (khoá VI) đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm là đổi mới kinh tế, với nhiều chủ trương, giải pháp cải cách kinh tế về cơ chế, cơ cấu các thành phần kinh tế, nhưng chưa đề ra chủ trương cải cách nền HCNN với tư cách là một hệ thống, đồng bộ đúng với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII, về nhiệm vụ CCHC, Đảng đã đặt “trọng tâm cải cách nhằm vào hệ thống hành chính với nội dung chính là xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chính nhà nước thông suốt từ trung ương xuống cơ sở, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu lực”. Tuy nhiên, việc CCHC mới dừng lại ở phạm vi cải cách một số nội dung của bộ máy hành chính là chủ yếu, chưa có tính tổng thể, đồng bộ. Bởi vậy, “mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực lập pháp cũng như hành pháp, song những tiến bộ đó vẫn còn thấp xa so với yêu cầu của tình hình thực tế”. Năm 1995, Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng(khoá VII) đã ra nghị quyết chuyên đề về cải cách nền HCNN đồng bộ về thể chế, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức. Nghị quyết Đại hội Đảng (khoá VIII) nhấn mạnh “... Công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính”. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, lần thứ X đề ra chủ trương: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh”. Quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng, năm 2001, Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2001-2010, tập trung cải cách trên bốn nội dung cơ bản của nền HCNN: thể chế hành chính; tổ chức bộ máy hành chính; cán bộ, công chức hành chính và tài chính công. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã nhấn mạnh: “Cải cách hành chính phải được thực hiện đồng bộ, vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”. Đảng và Nhà nước đã đánh giá đúng tình hình, hoàn cảnh lịch sử và các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; tình hình thực tế của bộ máy nhà nước, nền HCNN để lựa chọn những nội dung, hình thức, bước đi, cách làm cho phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm rõ ràng. Trong những năm từ 1991 đến 1995 tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cải cách một bước nền HCNN, với khâu đột phá vào cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, thí điểm áp dụng cơ chế “một cửa, một dấu”; tập trung sửa đổi, bổ sung căn bản Hiến pháp; sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới một số luật về kinh tế; bước đầu chấn chỉnh, sắp xếp tổ chức bộ máy; cải cách một bước cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức và bước đầu thực hiện chế độ thi tuyển ở một số cơ quan hành chính. Từ năm 1996, nền HCNN được cải cách đồng bộ. Những năm từ 1996 đến 2001 tập trung nhiều hơn vào xây dựng thể chế kinh tế thị trường, tăng cường cải cách thủ tục hành chính; quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tiếp tục cải cách các chế độ, chính sách tiền lương của cán bộ, công chức. Từ năm 2001 đến nay, Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh CCHC, tập trung sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, ban hành nhiều luật mới để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế; mở rộng thực hiện cơ chế “một cửa” đến cấp cơ sở trong toàn quốc; tiếp tục tinh giản bộ máy; tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và thực hiện một bước cải cách tài chính công. Cùng với việc lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm cải cách, Đảng và Nhà nước rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm điểm, làm thử, rút kinh nghiệm, với những sáng kiến, những việc làm mới. Năm 1995, thực hiện thí điểm cải cách thủ tục hànhchính theo mô hình “một cửa, một dấu” tại Quận 1, Quận 5 và huyện Củ Chi của thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm đã từng bước mở rộng thí điểm, triển khai thực hiện ra các tỉnh, thành, quận, huyện và xã, phường, thị trấn trên toàn quốc. Việc cải cách tài chính công cũng được Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo từng bước làm điểm, rút kinh nghiệm. Đầu năm 2000, thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm “khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính” tại 3 sở, 4 quận và 3 huyện; năm 2001, mở rộng thực hiện đối với các cơ quan HCNN. Năm 2002, thực hiện chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu và từng bước triển khai thực hiện ở các bộ, ngành từ trung ương tới địa phương. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cải cách nền HCNN trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách; lựa chọn đúng phương thức cải cách, đạt được nhiều kết quả thiết thực. 4. Mục tiêu và yêu cầu của CCHC: Mục tiêu: Xây dựng một nền hành chính trong sạch vững mạnh, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy phát triển KT-XH lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân , xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. “ Một nền hành chính dân chủ, trong sạch vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng và đảm bảo xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước” .(quyết định số 136/2001/QD-TTg ngày 19 tháng 9 năm 2001 của thủ tướng chính phủ về việc ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010) Yêu cầu: Xây dựng nền hành chính dân chủ XHCN phục vụ đắc lực cho nhân dân và giữ vững trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật. CCHC nhà nước là một bộ phận trọng yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, gắn với đổi mới và chỉnh đốn Đảng. CCHC gắn liền với cải cách cơ quan quyền lực, cơ quan tư pháp. CCHC phải phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới , phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và theo định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước đều phải xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, sát với điều kiện thực tê, giữ vững và phát huy truyền thống dân tộc, đồng thời vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của nền hành chính hiện đại thế giới. CCHC nhằm xây dựng một nền hành chính dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, nằm trong tổng thể hệ thống chính trị, trong đó nhân dân làm chủ thông qua nhà nước. 5. Nội dung của cải cách hành chính: Cải cách thể chế: Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính Cải cách tổ chức bộ máy hành chính: Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Từng bước điều chỉnh những công việc mà chính phủ, các bộ. cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và chính quyền địa phương đảm nhận để khắc phục những chồng chéo, trùng lặp về chứ năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện. Đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức: Xây dựng chiến lược cán bộ. Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức. Cải cách tài chính công: Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách TW, đồng thời phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách. Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương, quyền quyết định của các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc, quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách. 6. Những thành tựu đạt được: Hệ thống thể chế pháp luật từng bước được đổi mới và hoàn thiện, góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân Về cơ bản, các chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thể chế hoá, thông qua gần 100 văn bản luật, pháp lệnh ban hành 5 năm qua đã tạo dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho các thành phần kinh tế, cho người dân làm ăn và sinh sống. Khuôn khổ thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước, về công chức, công vụ được chú trọng đổi mới để bảo đảm thích ứng với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện chuyển đổi này. Cơ sở pháp lý phân biệt quản lý nhà nước với các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, thúc đẩy xã hội hoá, phân công, phân cấp đã hình thành và từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Thủ tục hành chính trên các lĩnh vực được rà soát, sửa đổi theo hướng đơn giản hoá, loại bỏ những khâu phiền hà, trùng lắp, bao gồm thủ tục hành chính trong quan hệ với dân, với doanh nghiệp và quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau. Cùng với các thể chế kinh tế, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ hoá đời sống xã hội đã có bước tiến dài, góp phần quan trọng vào ổn định xã hội, khai thác và phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước  được điều chỉnh từng bước phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong kink  tế thị trường Chính phủ, các bộ đã tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước vĩ mô trong phạm vi cả nước, trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; tập trung thời gian và nguồn lực vào việc thực hiện chức năng đích thực của mình là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Đã thực hiện điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước giữa các cấp hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn, trên nguyên tắc mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Chính quyền địa phương được phân cấp nhiều hơn, nhất là trong các lĩnh vực ngân sách, tài chính, biên chế, đầu tư, đất đai, y tế, giáo dục v.v… Trên cơ sở điều chỉnh lại phạm vi, đối tượng quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước, phân biệt và tách chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và chính quyền địa phương với quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý hoạt động sự nghiệp dịch vụ công, từng bước xoá bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương  được điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn Đồng thời với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từng bước làm rõ phạm vi và nội dung chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, trong những năm qua, đã tiến hành nhiều đợt sắp xếp, điều chỉnh lại tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở quán triệt nguyên tắc tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, cơ cấu tổ chức Chính phủ được điều chỉnh, thu gọn. Bước vào thời kỳ đổi mới (1986), số đầu mối các cơ quan của Chính phủ là 70 đến Đại hội IX còn 48, vào thời điểm hiện nay còn 38 (26 bộ, cơ quan ngang bộ, 12 cơ quan thuộc Chính phủ). Ở cấp tỉnh, số cơ quan chuyên môn  từ 35 đến 40 đầu mối nay giảm còn từ 20-25; cấp huyện từ 20 -25 nay giảm còn 10 -15 đầu mối các phòng ban chức năng. Cơ cấu bên trong các cơ quan của Chính phủ và chính quyền địa phương cũng có bước điều chỉnh theo hướng phân biệt rõ các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước với các tổ chức sự nghiệp cung cấp dịch vụ công. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước được nâng lên Công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thời gian qua được quan tâm triển khai trên diện rộng, kết hợp huy động nhiều giải pháp và đã đạt được một số kết quả tích cực. Năm 1986, số lượng cán bộ, công chức hành chính, sự nghiệp là 1,2 triệu người, hiện tại là hơn 1,7 triệu người, bằng 2% dân số cả nước, trong đó biên chế trong khối sự nghiệp nhà nước khoảng 1,4 triệu người, và nếu so với nhiều nước trên thế giới, đây là một tỷ lệ không cao. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 qua 2 lần sửa đổi vào các năm 2001 và 2003, đã có sự phân loại tương đối rõ đối tượng cán bộ, công chức, tạo căn cứ pháp lý để định ra yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất và chế độ, chính sách đãi ngộ tương ứng (cán bộ qua bầu cử, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức cơ sở cấp xã). Có thể khẳng định, thực hiện  những đổi mới, cải cách chế độ công vụ, công chức 5 năm qua đội ngũ cán bộ công chức đã có bước trưởng thành đáng kể. Một bộ phận công chức hành chính đã có năng lực, trình độ, kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại. Phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ ngành trung ương và Uỷ ban nhân dân (UBND) các cấp có bước đổi mới Tinh thần xuyên suốt quá trình đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước là giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Các cơ quan nhà nước tập trung làm tốt chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp lý, cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản lý nh