*Vỏ nhầy/Dịch nhầy (Capsule)-Giáp mô: Một số vi khuẩn bên ngoài được bao bọc bởi một lớp vỏ nhầy hay dịch nhầy. Đó là một lớp vật chất dạng keo có độ dày bất định. Kích thước và thành phần hoá học của lớp vỏ nhầy thay đổi tuỳ từng loại vi khuẩn.
+ Chức năng:
-Góp phần bảo vệ tế bào vi khuẩn (bảo vệ tế bào vi khuẩn tránh bị tổnthương khi gặp khô hạn, giúp cho vi khuẩn đề kháng mạnh hơn với những điều kiện bất lợi, giúp vi khuẩn chống lại hiện tượng thực bào của bạch cầu).
17 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 10886 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cấu tạo tế bào vi khuẩn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cấu tạo tế bào vi khuẩn:
a. Màng tế bào:
*Vỏ nhầy/Dịch nhầy (Capsule)-Giáp mô: Một số vi
khuẩn bên ngoài
được bao bọc bởi một lớp vỏ nhầy hay dịch nhầy. Đó
là một lớp vật chất dạng keo,
có độ dày bất định. Kích thước và thành phần hoá
học của lớp vỏ nhầy thay đổi tuỳ
từng loại vi khuẩn.
+ Chức năng:
- Góp phần bảo vệ tế bào vi khuẩn (bảo vệ tế bào vi
khuẩn tránh bị tổn
thương khi gặp khô hạn, giúp cho vi khuẩn đề kháng
mạnh hơn với những điều kiện
bất lợi, giúp vi khuẩn chống lại hiện tượng thực bào
của bạch cầu).
- Là nơi dự trữ thức ăn (khi thiếu thức ăn vi khuẩn có
thể sử dụng vỏ
nhầy như là nguồn dinh dưỡng).
- Là nơi tích luỹ một số sản phẩm trao đổi chất (vi
khuẩn sắt tích luỹ
Fe(OH)2, đây là sản phẩm sinh năng lượng của vi
khuẩn sắt).
- Giúp vi khuẩn bám vào bề mặt của giá thể.
+ Thành phần hoá học của vỏ nhầy:
Nước chiếm chủ yếu (98%). Phần còn lại là chất hữu
cơ với thành phần
chủ yếu là polysaccharit, ngoài ra còn có polypeptit,
protein.
*Thành tế bào (Cell – wall): Chiếm 25 – 30% khối
lượng khô của tế
bào.Thành tế bào có kích thước khác nhau tuỳ từng
loại vi khuẩn, đa số các vi
khuẩn Gram dương có kích thước lớn (14 – 18 nm),
vi khuẩn Gram âm có kích
thước nhỏ (khoảng 10 nm).
+ Chức năng của thành tế bào:
- Giữ cho tế bào có hình dạng ổn định.
- Bảo vệ tế bào vi khuẩn:
Giúp tế bào vi khuẩn đề kháng với các lực tác
động từ bên
ngoài,ví dụ: Vi khuẩn Gram dương chịu được áp suất
thẩm
thấu (Ptt) từ 15 – 20 atm, Gram âm chịu được 5 – 10
atm.
Cản trở sự xâm nhập của một số chất có hại vào tế
bào, ví
dụ: thành tế bào vi khuẩn Gram âm ngăn cản sự xâm
nhập
của các chất kháng sinh có khối lượng phân tử > 800.
- Cần thiết cho quá trình phân cắt bình thường của tế
bào.
- Có liên quan đến tính kháng nguyên, tính gây bệnh
của vi khuẩn:
Tính kháng nguyên: ở vi khuẩn Gram dương cấu
trúc
polyozit của glycopeptit đã quyết định tính đặc hiệu
về
miễn dịch của kháng nguyên; ở vi khuẩn Gram âm:
thành tế
bào tạo thành kháng nguyên O, đây là kháng nguyên
có tầm
quan trọng trong công tác chẩn đoán bệnh.
Thành tế bào sinh ra nội độc tố ở vi khuẩn Gram
âm.
13
+ Thành phần hoá học của thành tế bào: giữa vi
khuẩn Gram dương
và Gram âm có sự khác nhau rõ rệt:
Thành phần Tỷ lệ % đối với khối
lượng
khô của thành tế bào
VK
Gram dương Gram âm
-Peptidoglycan
(glycopeptit,
peptit,mucopeptit,
murein)
95 5 – 10
- Axit teichoic 5 0
- Lipit (Lipoit) 0 20
- Lipoprotein Không có hoặc rất ít 50
- Polysaccharit 0 20
Glycopeptit được tạo nên từ các chuỗi polysaccharit
nối với nhau bằng cầu
nối peptit, các chuỗi này được tạo nên từ nhiều loại
đường khác nhau gắn với các
đường amin (N-acetyl glucozamin, Galactozamin,
Axit-N-Acetylmuramic).
*Màng nguyên sinh chất: dày khoảng 4 – 5 nm.
+ Chức năng của màng nguyên sinh chất:
- Duy trì Ptt bình thường bên trong tế bào.
- Khống chế (Điều hoà) sự vận chuyển các chất dinh
dưỡng và các sản
phẩm trao đổi chất ra hay vào tế bào.
- Là nơi sinh tổng hợp các thành phần của tế bào.
- Là nơi tổng hợp nhiều loại enzim.
- Có nhiệm vụ trong sự phân chia tế bào cùng với
mezoxom.
+ Thành phần hoá học của màng nguyên sinh chất:
Màng này được
cấu tạo bởi 2 lớp photpholipit (chiếm 30 – 40% khối
lượng) và các protein nằm ở
phía trong, phía ngoài hay xuyên qua màng (chiếm
60 – 70% khối lượng). Sự phân
bố của photpholipit và protein khác nhau ở từng
vùng: có vùng nhiều, vùng ít, chính
vì thế đã tạo ra lỗ hổng trên màng nguyên sinh chất,
những lỗ hổng này có chứa một
loại protein đặc biệt gọi là permeaza.
Ngoài 2 thành phần chính là protein và photpholipit,
trên màng nguyên sinh
chất của vi khuẩn còn có 2 – 5% hydratcacbon, một
số ít chứa glycopeptit, một
lượng nhỏ protein.
b. Nguyên sinh chất (Cytoplasm)/Tế bào chất
(Protoplasm):
Nguyên sinh chất là thành phần chính của tế bào vi
khuẩn. Đây là một khối ở
trạng thái keo, chứa 80 – 90% nước, thành phần còn
lại chủ yếu là lipoprotein.
Nguyên sinh chất của tế bào vi khuẩn rất khác với
nguyên sinh chất của tế bào thực
vật. Trong tế bào thực vật, nguyên sinh chất có trung
thể (centrosome), ty thể
(mitochrondia), Riboxom, bộ máy Golgi, không bào
và lạp thể, có chuyển động
dòng nội bào.
14
Ở vi khuẩn cấu trúc của nguyên sinh chất đơn giản
hơn, trong nguyên '73inh
chất của vi khuẩn trưởng thành người ta quan sát thấy
nhiều cơ quan con khác nhau:
Mezoxom, Riboxom, không bào, các hạt dự trữ, các
hạt sắc tố và cấu trúc của nhân.
- Mezoxom là 1 thể hình cầu, nằm gần vách ngăn
ngang và chỉ xuất
hiện khi tế bào phân chia. Dưới kính hiển vi điện tử
mezoxom trông giống như một
phần lõm vào của màng nguyên sinh chất.
- Riboxom: số lượng Riboxom trong tế bào vi khuẩn
rất nhiều, thường
có 1000 Riboxom/1 tế bào. Riboxom của vi khuẩn
chứa khoảng 40 – 60% ARN, 35
– 60% protein, ngoài ra còn chứa một ít lipit, một số
enzim và một ít chất khoáng.
Riboxom chủ yếu nằm trong nguyên sinh chất, một
phần nhỏ nằm trên màng
nguyên sinh chất. Mỗi riboxom có 2 tiểu phần, tiểu
phần lớn có hằng số lắng 50S,
tiểu phần nhỏ có hằng số lắng là 30S.
- Các hạt dự trữ hay thể vùi bao gồm: hạt lipoit,
glycogen. Các hạt dự
trữ được hình thành khi tế bào tổng hợp quá nhiều,
bằng cách này không những vi
khuẩn dự trữ được thức ăn mà còn làm giảm bớt áp
suất thẩm thấu dưới dạng
polyme.
- Không bào: không bào là một tổ chức có hình cầu
hoặc hình bầu dục
được bao bọc bởi một lớp màng không bào
(tonoplast) có cấu trúc hoá học là
lipoprotein, trong không bào chứa đầy dịch tế bào.
Không bào có vai trò điều chỉnh
áp suất thẩm thấu của tế bào và là nơi chứa những
sản phẩm bất lợi của quá trình
trao đổi chất.
c. Thể nhân:
Vi khuẩn chưa có nhân thật, mới chỉ có thể nhân. Thể
nhân của vi
khuẩn là 1 nhiễm sắc thể duy nhất cấu tạo bởi 1 sợi
ADN xoắn kép còn gắn với
màng nguyên sinh chất. Nhiều vi khuẩn còn chứa
ADN ngoài nhiễm sắc thể. Đó là
những sợi ADN kép, dạng vòng kín, có khả năng sao
chép độc lập và gọi là plasmit.
- Về hình dạng: thể nhân có hình cầu, kéo dài như
hình que hay hình
quả tạ, hình chữ V.
- Về cấu trúc: thể nhân không có màng nhân nhưng
giới hạn giữa
nhân và nguyên sinh chất rất rõ. Thể nhân là 1 cấu
trúc sợi nhỏ có đường kính 3 – 8
nm, đó là 1 nhiễm sắc thể duy nhất của tế bào, cấu
tạo bởi 1 sợi ADN xoắn kép còn
gắn với màng nguyên sinh chất. Nhiễm sắc thể có
chiều dài 0,25 – 3,0 µm, chứa 6,6
– 13 x 106 cặp bazơN, nếu mở vòng xoắn ra thì sợi
dài 1mm, đó chính là 1 sợi ADN
có dạng vòng tròn và chỉ là 1 phân tử ADN đóng kín.
Trong quá trình phân chia tế bào, nhân phân chia
bằng cách cắt đôi,
không có sự gián phân bởi vi khuẩn chỉ có 1 nhiễm
sắc thể duy nhất.
d. Tiên mao (Flagella) và khuẩn mao (tiêm mao –
Pili):
Tiên mao là những sợi lông dài, uốn khúc, mọc ở mặt
ngoài một số vi
khuẩn và có tác dụng giúp vi khuẩn có thể chuyển
động trong môi trường lỏng (100
µm/s).
Ngoài tiên mao, trên cơ thể vi khuẩn còn có 1 bộ
phận phụ khác hình
sợi, rất ngắn và rất mảnh gọi là tiêm mao (Pili) hay
khuẩn mao (Fimbria). Đường
15
kính của Pili khoảng 20 – 80 nm, dài khoảng 0,3 –
0,4 µm. Dựa vào chức năng
người ta chia ra 2 loại Pili;
- Pili chung: dùng để bám giữ, giúp cho vi khuẩn bám
chắc hơn trên
bề mặt cơ chất. Mỗi tế bào vi khuẩn có hàng trăm
pili. Các pili chung có cấu tạo từ
protein có tên là pilin và nó là một kháng nguyên.
Đây không phải là cơ quan vận
động của vi khuẩn mà nó có tác dụng làm tăng bề
mặt hấp thu chất dinh dưỡng của
tế bào.
- Pili giới tính (Pili F): mỗi vi khuẩn có từ 1 – 4 pili
này. Vi khuẩn có
pili giới tính được gọi là vi khuẩn đực (F+). Pili giới
tính tham gia vào sự tiếp hợp
của vi khuẩn, sự tiếp hợp thể hiện bằng sự cố định
một đầu của Pili vào tế bào cái
(F-, tế bào không chứa pili giới tính), vật chất di
truyền được vận chuyển từ tế bào
đực sang tế bào cái thông qua pili này. Một số thực
khuẩn thể bám trên Pili giới tính
sẽ bơm axit nucleic của thực khuẩn thể vào vi khuẩn
qua đường Pili đó.
Đặc điểm Tiên mao Tiêm mao
Thành phần Protein tiên mao (Flagellin) Protein tiêm
mao (Pilin)
Kích thước 0,1 – 0,2 x 2 – 70 µm 0,007 – 0,009 x 0,5
– 20 µm
Số lượng 1 – vài trăm sợi/tế bào 250 – 400 sợi/tế bào
Chức năng Vận động Bám giữ, tiếp hợp
Nơi sinh ra Thể gốc nằm trong thành tế
bào
Thể gốc nằm trong nguyên
sinh chất
e. Bào tử/Nha bào (Spore, Endospore):
Một số vi khuẩn, thường là các vi khuẩn Gram dương
(G+) vào cuối
thời kỳ sinh trưởng phát triển có thể hình thành bên
trong tế bào những thể hình tròn
hay hình bầu dục gọi là bào tử hay nội bào tử. Vì mỗi
tế bào chỉ sinh ra một bào tử
cho nên đây không phải là loại bào tử có chức năng
sinh sôi nảy nở như ở nấm.
Nha bào là một hình thức sống tiềm sinh của vi
khuẩn, nó giúp cho vi
khuẩn vượt qua được những điều kiện bất lợi của
ngoại cảnh, nó thường được sinh
ra trong những điều kiện bất lợi của môi trường như:
thiếu dinh dưỡng, nhiệt độ, pH
không thích hợp, môi trường tích luỹ nhiều sản phẩm
trao đổi chất bất lợi ...
Bào tử có tính kháng nhiệt, kháng bức xạ, kháng hoá
chất, kháng Ptt.
Ví dụ: bào tử vi khuẩn gây ngộ độc thịt Clostridium
botulinum chịu được 100oC
trong 5 – 9,5 giờ, 121oC trong 10 phút; Trong dung
dịch phenol 5% tế bào dinh
dưỡng chết nhanh nhưng bào tử sống được 25 ngày,
trong dung dịch HgCl2 1% tế
bào dinh dưỡng chết ngay nhưng bào tử tồn tại được
2 giờ. Bào tử có sức sống rất
lâu, từ vài năm đến vài chục năm, ví dụ bào tử của
Bacillus subtilis có sức sống từ
200 – 300 năm, có những bào tử tồn tại được 500 –
1000 năm trong đất đá trầm tích
dưới đáy các hố sâu, thậm chí có những bào tử trong
các tiêu bản khảo cổ cách đây
3000 năm mà vẫn duy trì được sức sống.