Một số quan điểm về thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại

TÓM TẮT Tuy không phải là một trường phái triết học hoàn toàn độc lập, nhưng do thế giới quan triết học riêng biệt của mình nên chủ nghĩa hậu hiện đại có những cách nhìn nhận khác biệt trên một số lãnh vực. Những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại tỏ ra nghi ngờ về sự tồn tại của thế giới khách quan tuyệt đối trong nhận thức của con người. Họ cho rằng ngôn ngữ và sự nhận thức của cộng đồng văn hóa đã sáng tạo ra thế giới và tạo nên cảm giác về thế giới này. Đây cũng là sự biểu đạt của một thế giới quan duy tâm tồn tại trong triết học phương Tây hiện đại.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 20 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số quan điểm về thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 21 - Thaùng 6/2014 57 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI PHẠM ĐÌNH NGHIỆM(*) LÝ NGỌC YẾN NHI (**) TÓM TẮT Tuy không phải là một trường phái triết học hoàn toàn độc lập, nhưng do thế giới quan triết học riêng biệt của mình nên chủ nghĩa hậu hiện đại có những cách nhìn nhận khác biệt trên một số lãnh vực. Những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại tỏ ra nghi ngờ về sự tồn tại của thế giới khách quan tuyệt đối trong nhận thức của con người. Họ cho rằng ngôn ngữ và sự nhận thức của cộng đồng văn hóa đã sáng tạo ra thế giới và tạo nên cảm giác về thế giới này. Đây cũng là sự biểu đạt của một thế giới quan duy tâm tồn tại trong triết học phương Tây hiện đại. Từ khóa: thế giới quan, chủ nghĩa hậu hiện đại, chân lý khách quan SUMMARY Although not entirely an independent philosophical schools but the post-modernism viewpoints on different areas come from its particular philosophy worldview. The postmodernists have expressed their doubts about the existence of a absolutely objectivity world in human perception. They said that the language and consciousness of cultural community created the world and made sense for it. It is also an expression of idealistic worldview in modern western philosophy. Keywords: worldview, postmodernism, objective truth 1. ĐẶT VẤN ĐỀ * † Những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, chủ nghĩa tư bản đã ngày càng len lỏi sâu vào mọi ngõ ngách của thế giới. Bên cạnh lợi nhuận khổng lồ thu được, sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu cũng kéo theo đó những hệ lụy về mặt chính trị, xã hội, văn hóa. Trong bối cảnh ấy, tư tưởng hậu hiện đại với những quan niệm phá cách trên nhiều lĩnh vực như: nghệ thuật, triết học, tôn giáo, chính (*) PGS. TS, Khoa Giáo dục Chính trị, Trường ĐH Sài Gòn (**) ThS. Trường ĐH Ngoại thương, Cơ sở II tại Tp.HCM. trị, ngôn ngữ đã gây được sự chú ý và ngày càng lan rộng. Không chỉ là một phong cách tư duy, chủ nghĩa hậu hiện đại đã dần “thẩm thấu” vào nhiều lĩnh vực khác của đời sống và rồi trở thành một trào lưu văn hóa liên ngành có sức ảnh hưởng bậc nhất ở Tây Âu và Bắc Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Có thể nói, con đường hình thành và phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại là một minh chứng cho mối quan hệ biện chứng giữa hiện thực và tư tưởng theo hướng “triết học hình thành từ văn hóa” – một xu thế khá thịnh hành trong thời đại ngày nay. Tư duy hậu hiện đại luôn thể hiện sự hoài nghi, thậm chí là chống đối cái mà nó gọi là MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI 58 nền tảng luận, chủ trương phi hệ thống, phi trung tâm. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là lý luận có phần tản mác của trào lưu này không được khởi đi từ những xuất phát điểm nhất định. Dù không được xem như một trường phái triết học độc lập, song có thể thấy rằng những quan điểm của nó về các lĩnh vực khác nhau bắt nguồn từ thế giới quan triết học đặc thù. Đối với giới học thuật, chủ nghĩa hậu hiện đại là một đề tài không mới, tuy nhiên, không có nhiều nghiên cứu khái quát những quan điểm của nó ở tầm thế giới quan. 2. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI Là một trào lưu văn hóa thịnh hành vào thập niên 70-80 ở các nước phương Tây, chủ nghĩa hậu hiện đại nhận được nhiều sự quan tâm của giới học giả. Tuy có nhiều quan điểm dựa trên các cách tiếp cận khác nhau nhưng xem xét trên phương diện nào thì thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại cũng thể hiện mối tương quan ý nghĩa với chủ nghĩa hiện đại. Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, chủ nghĩa hiện đại vừa là nguồn gốc phát triển, đồng thời cũng là đối tượng bị phủ nhận của chủ nghĩa hậu hiện đại. Lyotard – người được xem như một trong những nhà sáng lập ra chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm “Hoàn cảnh hậu hiện đại” đã cho rằng: “Chủ nghĩa hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với các siêu tự sự”1, hậu hiện đại không phải là chủ nghĩa hiện đại đến chỗ đường cùng, mà là trạng thái sống mới, một sự viết lại (rewrite) lại hiện đại2. Theo đó, chủ nghĩa hậu hiện đại như là một thời kì, trạng thái biểu hiện một quan hệ khác với chủ nghĩa hiện đại chứ không phải là một giai đoạn mới, hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa hiện đại. Nhìn vào diễn tiến quá trình hiện diện của cái gọi là “hậu hiện đại” ở các nước phương Tây có thể thấy: chủ nghĩa hậu hiện đại không chỉ bị bó hẹp trong những lĩnh vực nào đấy của xã hội mà hơn thế, nó đã thâm nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ trên nhiều phương diện: từ triết học, nghệ thuật, lý thuyết phê phán, văn học, kiến trúc, thiết kế, đến cả sự thể hiện của lịch sử, văn hóa cũng như khoa học và đời sống kể từ cuối thế kỉ XX. Tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại có đặc điểm là chủ trương sự đa dạng, khác biệt, thể hiện sự hoài nghi đối với cái toàn thể, cái tổ hợp. Đối với các lý thuyết, chủ nghĩa hậu hiện đại phê phán kì vọng của những tư tưởng muốn trở thành những lý luận chung, nền tảng, bao quát hết thảy mọi thứ. Trên lĩnh vực triết học, sự phản ứng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với chủ nghĩa hiện đại thể hiện qua những tư tưởng muốn vượt qua những quan niệm truyền thống, những “siêu diễn ngôn”3 như: những khái niệm được ra đời từ thời đại Khai sáng, “phép biện chứng của tinh thần, giải minh học hay thông diễn học về ý nghĩa, sự giải phóng chủ thể lý tính hay chủ thể lao động, sự phát triển của cải”4, thuyết tiến hóa của Darwin, phân tâm học của Freud hay chủ nghĩa Marx Bởi thế, đa số những nhà triết học chống truyền thống danh tiếng nhất phương Tây từ giữa thế kỉ XIX trở đi như: Soren Kierkegaard, Friedrich Nietzsche, Martin Heidegger, Wittgenstein đều được coi là những người xây dựng nền móng cho chủ nghĩa hậu hiện đại. Trên phương diện nhận thức, chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng không có chân lý tuyệt đối, bất biến. Chân lý chỉ mang tính nhất thời, nó sẽ liên tục thay đổi theo sự thay đổi của thực tiễn. Đối với những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, sự thật và giả dối hoàn toàn có thể hoán đổi cho nhau, không có chân lý khách quan tuyệt PHẠM ĐÌNH NGHIỆM - LÝ NGỌC YẾN NHI 59 đối mà tất cả chỉ là tương đối, tạm thời, phụ thuộc vào sự đồng thuận giữa cá nhân và cộng đồng thông qua các siêu tự sự, đại tự sự. “Công lý cũng như chân lý, đều liên quan với đại tự sự”5. Do đó, mọi chân lý, đối với những triết gia hậu hiện đại đều chỉ là những chân lý tạm thời phản ánh mối quan tâm của những người xây dựng nên chúng. Cho nên nếu muốn sử dụng chân lý mà ta có như một “vũ khí chiến đấu” thì chúng ta phải nhớ rằng chúng là nhất thời và mang tính tạo dựng6. Do đó, xét về thực chất, chủ nghĩa hậu hiện đại không phải là một trường phái độc lập của triết học, chính trị học, nghệ thuật học hay bất kỳ lĩnh vực nào khác, mà nó là một trào lưu tư tưởng liên ngành, bắt nguồn từ trạng thái mới của lịch sử nhưng luôn mang cảm thức vượt lên lịch sử. 3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA THẾ GIỚI QUAN HẬU HIỆN ĐẠI Tuy không được trình bày một cách hệ thống và rõ ràng như thế giới quan của một số trường phái triết học, song qua những phát biểu mang tính tương đối nhất quán, vẫn có thể nhận diện thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại như một cách nhìn nhận, đánh giá chung nhất về thực tại. Xuất phát từ tư tưởng chống lại cái toàn thể và hoài nghi về sự tồn tại của chân lý khách quan, tuyệt đối, đồng thời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của triết học ngôn ngữ và chủ nghĩa hậu cấu trúc, trong quá trình đưa ra những quan điểm về thế giới, chủ nghĩa hậu hiện đại thể hiện nghi vấn đối với những niềm tin duy lý rằng có sự tồn tại của một thế giới khách quan tuyệt đối trong nhận thức con người. Theo đó, thế giới như ta biết không còn là chính nó mà phụ thuộc phần lớn vào ngôn ngữ và ý chí của cộng đồng văn hóa. 3.1. Ngôn ngữ kiến tạo thế giới Những nhà tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng thế giới mà chúng ta nhận thức không phải là thế giới tự nó mà chẳng qua chỉ là sản phẩm của tư duy ngôn ngữ. Trong tác phẩm Bàn về ngữ pháp học, Derrida đã khẳng định: “Không có gì khác nằm ngoài văn bản”, hay “văn bản luôn mang đến cho chúng ta một con số thặng dư của khả năng nên chúng ta chưa thể đứng ngoài văn bản trong sự cố gắng tìm ra tính khách quan”7. Phát biểu khước từ mọi sự tồn tại của những “cái khác” ngoài văn bản này của Derrida không có nghĩa là chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan trên thực tế mà là sự nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ trong việc xây dựng ý nghĩa cho thực tại được phản ánh. Foucault lại đi xa hơn trong vấn đề này khi cho rằng: “Lý thuyết không diễn đạt, phiên dịch hay để áp dụng vào thực tiễn: nó chính là thực tiễn. Nhưng lý thuyết có tính cục bộ và khu vực Nó không toàn thể hóa Lý thuyết không phải để “thức tỉnh ý thức” rằng chúng ta đang đấu tranh, mà là để kích thích năng lực Nó là một hoạt động được tiến hành bên cạnh những kẻ đấu tranh giành quyền lực, chứ không phải là kẻ soi sáng (cho) họ từ một khoảng cách an toàn”8. Có thể thấy, dưới cái nhìn hậu hiện đại, ngôn ngữ không còn giữ vai trò trung gian trung tính truyền tải sự phản ánh chính xác thực tại để qua đó, con người biết được về một hiện thực khách quan ẩn giấu phía sau lời và chữ, mà hơn thế, nó góp phần vẽ nên một thực tại mới theo nhận thức và ý đồ của chủ thể. Về vấn đề này, Richard Rorty cũng có quan điểm: “Chúng ta cần phải có một sự phân biệt giữa tuyên bố rằng thế giới này hiện hữu với tuyên bố chân lý hiện hữu Cho rằng chân lý không hiện hữu đơn giản là để nói rằng ở đâu không có những câu chữ thì MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI 60 ở đó không có chân lý, rằng những câu chữ đó là những thành tố của ngôn ngữ con người, và ngôn ngữ chính là những sáng tạo của con ngườiThế giới thì không nói. Chỉ có chúng ta làm điều đó”9. Chỉ có con người đang sử dụng ngôn ngữ để mô tả về hiện thực chứ bản thân hiện thực không tự biểu hiện mình qua ngôn ngữ. Và cũng chính bằng ngôn ngữ, con người xây dựng những sự thật về hiện thực và luôn tin rằng những cái mình đang xây dựng thực sự là sự thật thuần túy về hiện thực đó. Vì lẽ đó, đối với các nhà hậu hiện đại, khát vọng nắm bắt thế giới thuần khiết như nó vốn có chỉ là ảo tưởng10. Họ cho rằng, giữa ngôn ngữ và thực tại không có sự tương thích hoàn toàn mà luôn có một độ “vênh” nhất định về mặt ý nghĩa. Ngôn ngữ và hiện thực mà ngôn ngữ nhắm vào đó để miêu tả là hai tồn tại khác nhau, một bên là cái phản ánh, một bên là cái được phản ánh và do đó chúng là bất khả so sánh. Không chỉ chịu sự tác động của ý thức người sử dụng ngôn ngữ, độ vênh ý nghĩa giữa ngôn ngữ và thực tại (gốc) còn xuất phát từ chính bản thân cấu trúc ngôn ngữ. Ngôn ngữ không tồn tại một cách cô lập, khép kín trong chính nó và trong mối quan hệ với thực tại mà trái lại, bản thân các ký hiệu ngôn ngữ luôn “va chạm” với nhau để tạo ra những cấu trúc ngôn ngữ mang những tầng nấc ý nghĩa mới11. Chúng ta thường quan niệm ngôn ngữ là hệ thống ký hiệu, tín hiệu vật chất giữ vai trò là phương tiện biểu đạt những thông tin của ý thức, còn nội dung của ý thức do hiện thực khách quan quy định. Thế nhưng đối với các nhà hậu hiện đại, nội dung của ý thức được tạo lập bởi chính bản thân những yếu tố trong cấu trúc ngôn ngữ. Do đó, không phải thực tại làm nên ý nghĩa của ngôn ngữ mà trái lại, ngôn ngữ đã khiến cho thực tại mang nhiều ý nghĩa tùy vào sự tương tác của các hệ thống ký hiệu, biểu tượng nơi các diễn ngôn hay văn bản. Và vì thế, trong sự tương tác, triển hạn không ngừng của văn bản, các thực tại khác nhau sẽ được hình thành và tác động đến nhận thức con người. 3.2. Hình ảnh thực tại phụ thuộc ý chí cộng đồng văn hóa Thực tại không chỉ là tác phẩm được dựng nên bởi bản thân các thành phần trong cấu trúc ngôn ngữ mà còn phụ thuộc vào trường ý nghĩa của ngôn ngữ, cái góp phần xác lập những hệ quy chiếu tạo cơ sở tồn tại và biểu đạt cho mỗi phát ngôn. Chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng chúng ta sẽ không bao giờ dỡ bỏ được những quan điểm, đôi khi là những định kiến đã được xác lập từ trước đó khi tiếp cận thực tại để có được sự thực khách quan, thuần khiết về nó. Những yếu tố hoàn cảnh lịch sử, cấu trúc tri thức và tâm lý xã hội đóng vai trò như những yếu tố trong ngữ cảnh (tạm dịch từ “situatedness12”) ngăn cản con người tiếp nhận thế giới một cách khách quan để nhận thức thực tại đúng như những gì nó vốn có. Trong các nghiên cứu của mình về mối quan hệ giữa quyền lực và tri thức/diễn ngôn, Foucault thể hiện sự nghi ngờ về cái gọi là khách quan, trung tính của tri thức. Ông thấy rằng tri thức của con người biến đổi theo thời gian, phụ thuộc vào hệ thống diễn ngôn giữ vai trò thống trị ở thời đại đó. Chính con người, qua các diễn ngôn tạo ra ý nghĩa của thế giới, và lọc thế giới qua ngôn ngữ13. Bởi thế, hình ảnh về thực tại chẳng qua chỉ là sản phẩm của sự hợp thức hóa cho những kỳ vọng và mong muốn của con người trong những điều kiện xã hội nhất định. Không bao giờ có những sự thật về thực tế, chỉ có sự giải thích về thực tế đó mà thôi14114. Vậy nên thế giới, trong đó có văn hóa, không gì khác là sự phức hợp, đan PHẠM ĐÌNH NGHIỆM - LÝ NGỌC YẾN NHI 61 cài giữa các văn bản, những câu chuyện/ tự sự được kể lại bởi ý chí cộng đồng xã hội ở mỗi thời đại khác nhau. Đó cũng chính là kết quả của sự đồng thuận giữa tri thức và nguyện vọng nơi số đông người trong xã hội đó. 3.3. Đa thực tại và các tiểu tự sự Có thể nói, trong quan niệm chung nhất về thế giới, cái mà chúng ta cho là hiện thực khách quan, là thực tế thì đối với những nhà hậu hiện đại đó chỉ là một văn bản, một diễn ngôn hay một câu chuyện/ tự sự được tường thuật lại. Nói như Heidegger (một trong những triết gia mà học thuyết của ông giữ vai trò là tiền đề lý luận của chủ nghĩa hậu hiện đại) thì: “Hình ảnh thế giới không hề thay đổi từ thời tiền trung cổ tới thời hiện đại, song chính sự kiện thế giới trở thành hình ảnh mới là điều làm bật lên tính thể của thời hiện đại”15. Con người trước đây luôn đinh ninh rằng hình ảnh ta có về thế giới là hiện thực trong khi con người hiện đại lại xem thế giới hiện thực chỉ là hình ảnh. Đó hai cảm nhận khác biệt về thế giới ở từng thời đại bắt nguồn từ quan niệm khác nhau về nhận thức. Một đằng khẳng định khả năng phản ánh một cách khách quan, đầy đủ, trung thực của nhận thức và khả năng biểu đạt chính xác những điều đó nơi ngôn ngữ. Một đằng nhấn mạnh tính không tương thích và bất khả so sánh giữa vật và lời. Các nhà hậu hiện đại đồng tình và ra sức chứng minh cho tính khả dĩ của khuynh hướng thứ hai. “Rốt cuộc, hiện thực trực tiếp duy nhất của chúng ta là biểu tượng của chúng ta về hiện thực, và hiện thực duy nhất có thể quan niệm được của chúng ta là quan niệm về hiện thực của chúng ta. Nhưng để quan niệm được biểu tượng, quan niệm và tinh thần của mình, chúng ta lại cần có ngôn ngữ để có thể tạo ra khái niệm biểu tượng, quan niệm và tinh thần, cũng như cần có một thực thể người sống động và có tính xã hội, có một bộ não để hiểu được ngôn ngữ”16. Chính vì chịu sự tác động của ngữ cảnh và ý chí chủ thể nên theo chủ nghĩa hậu hiện đại, không có một thực tại bất biến, tuyệt đối được biểu hiện qua ngôn ngữ để từ đó làm nền tảng cho mọi nhận thức con người mà trái lại, có nhiều hiện thực đang cùng tồn tại đan xen. Và điều đáng nói ở đây, sẽ không có một cơ sở nào chắc chắn và xác tín cho phép ta khẳng định rằng đâu mới là hình ảnh trung thực nhất có khả năng đại diện cho hiện thực nguyên bản hoặc trong những câu chuyện được kể lại, câu chuyện nào mới là nguyên thủy mà không phải là những dị bản. Cho nên, theo chủ nghĩa hậu hiện đại, bất kỳ một tuyên bố nào về thực tế cũng không thể đại diện cho thực tế thực sự để trở thành sự thật hoàn hảo nhất về thực tế. Một kết luận tất yếu được rút ra: không có chân lý tuyệt đối, chỉ có những sự thật. Những sự thật này đều được thừa nhận giá trị vì chúng hữu ích đối với cộng đồng đã xây dựng nên nó và có sự khác biệt nơi chính nội dung và hình thức của diễn ngôn đã lý giải, miêu tả về nó bởi những phát ngôn đó khởi sinh và hiện diện trong những trường ngữ nghĩa khác nhau. Hay nói như Foucault: “Mỗi xã hội đều có cơ chế chân lý của nó, “chính trị học chung” về chân lý của nó”17. Vì lẽ đó, trong cách nhìn nhận của mình, chủ nghĩa hậu hiện đại đề cao tính đa thể, phi trung tâm nơi các tự sự. Nó thể hiện sự hoài nghi về những đại tự sự hay siêu tự sự với tham vọng giải thích được mọi tồn tại trong thế giới, ngay cả giả định về sự tồn tại của một thế giới khách quan nằm ngoài ý thức con người, là đối tượng, mục đích của nhận thức. Trong Hoàn cảnh hậu hiện đại (1979), Lyotard cho rằng: “Đại tự sự mất đi tính đáng tin của nó”18 Thế nên, Lyotard – và hầu hết các nhà tư tưởng theo chủ nghĩa hậu hiện MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ THẾ GIỚI QUAN CỦA CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI 62 đại đều khuyến khích những tiểu tự sự - những câu chuyện gắn với những đối tượng cụ thể trong một phạm vi xác định, phù hợp với chuẩn tắc của một cộng đồng văn hóa nhất định, nói khác hơn là chú trọng vào tính hiệu quả và hữu ích thay vì chỉ quan tâm tìm kiếm và chứng minh tính đúng đắn của những giả định siêu hình học. Chủ trương “tư duy toàn cầu, hành động địa phương” (think globally, act locally) xuất phát từ tư tưởng hậu hiện đại cũng thể hiện rõ tinh thần này. 4. KẾT LUẬN Có thể nói rằng, dù được biến tướng dưới những diễn đạt khác nhau về vai trò của ngôn ngữ, cộng đồng văn hóa nhưng xét đến cùng, chủ nghĩa hậu hiện đại đã xuất phát từ thế giới quan duy tâm để đưa ra các luận điểm của mình về các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. đỉnh cao suy lý - bước kiện toàn của “tâm thức hậu hiện đại”. Ở đó, ngôn ngữ, ý chí, nguyện vọng của cộng đồng là những yếu tố chi phối mạnh mẽ đến nhận thức của con người về thế giới mà họ đang tồn tại trong nó. Tìm hiểu thế giới quan của chủ nghĩa hậu hiện đại do đó, góp phần lý giải căn nguyên của những quan điểm về nghệ thuật, tôn giáo, chính trị, xã hội đi ngược với tư duy truyền thống từng một thời làm “khuynh đảo” giới học giả phương Tây cũng như một bộ phận giới văn nghệ sĩ Việt Nam những thập niên gần đây. Với sự phát triển không ngừng của xã hội ngày nay, những vấn đề mới liên quan đến con người và thế giới không ngừng được nảy sinh và có những tác động mạnh mẽ đến thế giới quan của những nhà hậu hiện đại. Trong chính tư duy của họ bắt đầu hiện diện một hướng đi mới đối với phương pháp tiếp cận: Làm thế nào để vượt qua chủ nghĩa hậu hiện đại? “Chúng ta không còn cần thiết chỉ nói theo lối phủ định” là một trong những ý kiến mà các nhà triết học hậu hiện đại đưa ra trong Hội thảo khoa học lần thứ nhất về chủ nghĩa sau hậu hiện đại (After Post Modernism) tại trường Đại học Chicago vào tháng 11 năm 199719. Họ cũng đồng thời thể hiện sự nghi ngờ và thách thức quan điểm chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa hư vô, khắc phục tính cực đoan và phiến diện của các nhà theo chủ nghĩa hậu hiện đại đương đại để tìm kiếm một con đường phát triển tương đối hợp lý và kiện toàn cho triết học phương Tây. Nhận định sau đây của Derrida trong Những bóng ma của Mác được đúc kết ở giai đoạn mà tư tưởng hậu hiện đại không còn đình đám trong giới trí thức và cả ở các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có vẻ nó như một sự cáo chung cho lối phê phán một chiều của trào lưu tư tưởng này đối với các đại tự sự mà chủ nghĩa Marx là một đối tượng ưu tiên. “Tất cả mọi người trên toàn trái đất này, dù họ